Tổng hợp 16 Chuyên đề lí luận Văn học Lớp 9

docx 215 trang thanh nguyễn 20/07/2025 130
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tổng hợp 16 Chuyên đề lí luận Văn học Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng hợp 16 Chuyên đề lí luận Văn học Lớp 9

Tổng hợp 16 Chuyên đề lí luận Văn học Lớp 9
 VĂN HỌC LÀ NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ
1. Ngôn từ là chất liệu xây dựng hình tượng của văn học
 Nghệ thuật nói chung đều phản ánh cuộc sống con người nhưng mỗi ngành nghệ 
thuật có một chất liệu riêng. Hội họa dùng màu sắc, đường nét âm nhạc diễn tả bằng 
âm thanh, tiết tấu điêu khắc dùng chất liệu (kim loại, đá, gỗ) tạo nên hình khối, 
đường nét v.v Còn văn học phải diễn tả bằng ngôn từ. Mỗi tác phẩm văn học phải được 
gắn liền với một thứ ngôn ngữ và văn tự (gốc) nhất định. Ngôn ngữ, văn tự là công cụ 
của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Tuân được ca ngợi là bậc thầy về ngôn ngữ. Văn của ông 
là tờ hoa, là trang văn. Hồ Chí Minh viết văn làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ, bằng tiếng Pháp, 
bằng chữ Hán. 
2. Những đặc điểm của ngôn từ văn học
 - Nhà văn nhà thơ phải sử dụng ngôn từ và trau chuốt nó, tạo thành một thứ ngôn ngữ 
văn chương giàu có, sang trọng, đẹp đẽ. Ngôn ngữ văn học có những đặc điểm sau:
 – Tính hệ thống
 – Tính chính xác
 – Tính truyền cảm
 – Tính hình tượng
 – Tính hàm súc, đa nghĩa
 – Tính cá thể hoá
 Trong đó, tính chính xác, tính truyền cảm, tính hình tượng là cực kỳ quan trọng. Nói 
rằng “Văn hoa dã chất chi đối”, “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” là như vậy. 
Kim Trọng khen Kiều khi nàng làm một bài thơ viết lên bức tranh Kim Trọng mới vẽ:
 “Khen tài nhả ngọc phun châu,
 Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này!”
 Nhà văn sử dụng ngôn từ để xây dựng hình tượng văn học. Vì thế đọc sách hoặc phân 
tích thơ văn không được thoát li văn bản và ngôn từ.
 Ngoài ra, ngôn từ còn phải có tính trong sáng, phù hợp chuẩn mực toàn dân và có 
tính mới lạ, hấp dẫn.
3. Tính chất “phi vật thể” của chất liệu ngôn từ và khả năng diễn tả đặc biệt phong 
phú của nghệ thuật ngôn từ
 - Xem tranh xem ti vi đã thấy được cụ thể cảnh vật, sự việc biểu hiện. Đọc văn, ta 
phải tưởng tượng, liên tưởng, suy luận, cảm xúc với tất cả mọi giác quan và tâm hồn, mới 
hình dung được cảnh vật, sự việc. Điều đó nói lên rằng, ngôn từ mang tính chất “phi vật 
thể”. Con chứ đấy, câu thơ đấy nhưng không phải ai cũng hiểu và cảm như nhau.
 - Ngôn từ có sức mạnh vạn năng, có thể diễn tả sự việc theo dòng chảy lịch sử qua 
hàng trăm năm, hàng vạn năm trên một không gian hữu hạn hoặc rộng lớn vô hạn.
 - Ngôn từ còn có khả năng diễn tả những rung động biến thái của tâm hồn con người. 
Thật là kỳ diệu khi Nguyễn Trãi viết:
 “Ngư ca tam xướng yên hồ khoát,
 Mục đích nhất thanh thiên nguyệt cao!”
 (Ức Trai thi tập)
 Văn học là sự thể hiện tinh tế tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng, quan điểm 
và lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn đối với con người và cuộc sống. Mỗi trang văn, mỗi bài 
thơ (đích thực) dù nói về gì, đề tài gì rộng lớn hay bé nhỏ đều thể hiện lòng yêu, sự ghét 
của tác giả, thể hiện một quan điểm nhân sinh hoặc lên án cái ác, hoặc ca ngợi tình yêu, + Văn chương chính là tiếng nói lớn của tâm hồn – dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, văn chương 
cũng muốn đem cái đẹp vào cuộc sống. Thế giới quanh ta thật bao la với muôn nghìn sự 
kiện luôn sôi động.
+ Và văn học thật sự là tấm gương phản ánh hiện thực cuộc sống nhưng là sự phản ánh 
có chọn lọc.
+ Thế giới khách quan được nhìn nhận qua thế giới chủ quan của tác giả, hiện thực sinh 
động được khái quát cụ thể, độc đáo trong tác phẩm văn chương.
+ Một nhà văn chân chính được ví với con ong miệt mài đi hút nhụy hoa, sương đêm lắng 
đọng để làm nên mật ngọt cho đời, và ngôn ngữ là phương diện thiết yếu giúp nhà văn 
sản sinh ra hương mật văn chương.
+Văn chương luôn luôn bắt nguồn từ gốc rễ của lao động và qua lao động, con người 
sáng tạo ra ngôn ngữ. Con người vẫn luôn luôn dùng ngôn ngữ để giao tiếp, qua cách nói, 
viết thư, trao đổi
 => Văn chương là một loại hình nghệ thuật ra đời giúp con người tìm đến với 
nhau. Nhà văn đã thông qua tác phẩm để bộc bạch bày tỏ tâm tư, ước vọng với cuộc đời 
và con người trong xã hội.
- Ngôn ngữ sáng tạo trong văn chương bắt nguồn từ thực tiễn và lao động
+ Ngôn ngữ của cuộc đời thường là một loại quặng con lẫn biết bao tạp chất. Nhà văn là 
người thợ cần mẫn làm công việc của người tình nguyện loại bỏ những chất thải để kết 
đúc lại thứ kim loại hoàn hảo hơn, đủ sức lóng lánh phản chiếu tâm hồn của con người.
+ Văn chương nếu chỉ là lập lại thì sẽ không tồn tại được lâu dài. Nhà văn phải sống cuộc 
sống với nhân dân, chia sẻ niềm vui, ước vọng với họ thì mới nói lên được tiếng nói của 
nhân dân.
Cuộc đời là trường học của những nhà văn tâm huyết, cuộc đời sẽ giúp nhân văn tích luỹ 
được vốn sống, ngôn ngữ phong phú. Tư tưởng dù có vĩ đại bao nhiêu mà nghèo nàn biểu 
hiện thì cũng trở nên vô ích.
+ Nội dung phải phù hợp với hình thức. Hai yếu tố thống nhất sẽ làm nên một tác phẩm 
hoàn chỉnh, cũng như tư tưởng lớn được diễn đạt với một vốn ngôn ngữ đa dạng, hình 
thức thích hợp.
+Giàu ngôn ngữ thì vẫn sẽ hay” nhưng có vốn mà không biết sử dụng thì chỉ như nhà 
giàu giữ của” Ngôn ngữ của cuộc đời thường vào tác phẩm phải là những dòng ngôn ngữ 
văn chương giàu tình cảm, giàu sức biểu hiện
-Văn chương là tấm gương phản ánh cuộc sống nhưng không có nghĩa là bê nguyên cuộc 
sống vào tác phẩm, mà văn chương là tái hiện và tái tạo cuộc sống.
+ Nhà văn phải nói lên khát vọng của nhân dân, dự báo mọi điều đang đến và sẽ đến trong 
tương lai.
+ Do đó, văn chương là loại hình nghệ thuật tuyệt vời nhất, đậm đà tình cảm nhất. Muốn 
văn chương thật gần gũi với quần chúng, nhà văn phải nói lên được khát vọng của họ với 
cuộc đời, sao cho mỗi tác phẩm đều đem đến cái đẹp cho cuộc đời.
 => “Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp”. Sự linh 
hoạt của văn chương tức là sự linh hoạt của nhà văn khi lao động, sáng tạo nghệ thuật, 
sao cho mỗi hình tượng nghệ thuật đều có sức trường tồn với thời gian.
2. Phân tích, chứng minh
- Phân tích tác phẩm văn học để chứng minh
3. Bình luận:
-Ngôn ngữ trong văn chương đa dạng, phức tạp như chính cuộc sống hằng ngày. Qua bàn 
tay tôi luyện của nhà văn, ngôn ngữ ấy làm nên sự phong phú của văn chương. Phương máu thịt của dân tộc Việt Nam, tác giả sinh ra, lớn lên trong lòng tiếng Việt, ấp ủ, nuôi 
dưỡng “nỗi đau đời” để tạo nên một tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” bất diệt. “Truyện 
Kiều” cũng là ngôn ngữ của nhân dân, thứ ngôn ngữ mà chúng ta hiểu và cảm thông sâu 
sắc. Thế nhưng đã mấy thế kỷ trôi qua, “Truyện Kiều” vẫn được đánh giá làm một viên 
ngọc toàn bích về nghệ thuật, không một vết xước, không chút bụi mờ? Phải chăng 
Nguyễn Du đã làm công việc gạn lọc ngôn ngữ đời thường, tinh luyện, nâng niu từng 
chữ, từng câu để tạo nên vẻ đẹp tuyệt diệu đó? Nhưng dù có gạn lọc đến đâu, có đãi cát 
tìm vàng đi chăng nữa thì vốn liếng ấy cũng là ít ỏi so với một tác phẩm vĩ đại, cái tài, cái 
khổ luyện của Tố Như là ở chỗ tác giả “không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn 
là người phát triển ra ngôn ngữ có sáng tạo”. Quả thật, nếu không làm được công việc đó 
“Truyện Kiều” sẽ không được truyền tụng và hấp dẫn đến tận hôm nay – những năm cuối 
của thế kỷ XX nhìn lại chặng đường “Đoạn trường tân thanh” đã đi qua với bao thăng 
trầm, biến đổi. Hai trăm năm, một quãng thời gian đủ đế ngôn ngữ phát triển và hoàn 
thiện, tuyệt vời sao, trong “Truyện Kiều” vẫn khiến muôn thế hệ phải nhỏ những giọt lệ 
xót thương nàng Kiều. Ngôn ngữ “Truyện Kiều” đầy sức lay động, thuyết phục đến mức 
không thể nào thay thế được nữa. Nguyễn Du đã sử dụng và phát triển, sáng tạo ngôn ngừ 
có sức sống lâu bền, hoàn hảo nhất. Từ một câu thơ chừ Hán của Thôi Hiệu, Nguyễn Du 
chuyển sang chữ Nôm đã trở nên đậm đà, gần gũi với dân tộc:
 “Nhân diện bất tri hà xứ khứ
 Đào hoa y cựu tiếu đông phong.”
 (Thôi Hiệu)
 “Trước sau nào thấy bóng người
 Hoa đào năm ấy còn cười gió đông.”
 (Nguyễn Du)
 Câu thơ chữ Hán là tâm trạng của Thôi Hiệu trước cảnh cũ nhớ mà vào tay Tố 
Như bỗng bồi hồi, xao xuyến tâm trạng chàng Kim nhớ người yêu. Tài năng của nhà thơ 
không chỉ là phát hiện, sáng tạo ra cái mới mà còn là cách sử dụng tài tình, biến cái cũ 
thành cái mới thành sắc thái nhuần nhị hơn, biểu cảm hơn. Nhưng học tập không có nghĩa 
là “bám vào ngôn ngữ của ngườị khác”. Cuộc sống, tình cảm con người vốn phong phú, 
đa dạng đòi hỏi phải có nhiều cách biểu hiện khác nhau. Ngôn ngữ văn chương là tiếng 
nói của riêng mỗi nhà văn nói riêng về cuộc đời – nó phải mang phong cách thuyết phục 
người đọc. Cùng một sự việc nhưng ở một góc độ sẽ có cách nhìn khác nhau – văn chương 
nếu chỉ là lập lại thì sẽ không tồn tại được lâu dài. Nhà văn phải sống cuộc sống với nhân 
dân, chia sẻ cùng nhân dân. Cuộc đời là trường học của những nhà tâm huyết – cuộc đời 
sẽ giúp nhà văn tích lũy được vốn sống, vốn ngôn ngữ phong phú. Tư tưởng này dù có vĩ 
đại bao nhiêu mà nghèo nàn biểu hiện thì cũng trở nên vô ích. Nội dung phải phù hợp với 
hình thức. Hai yếu tố thống nhất sẽ làm nên một tác phẩm hoàn chỉnh nếu tư tưởng lớn 
được diễn đat với một vốn ngôn từ đa dạng, hình thức thích hợp. Cùng một giọt nước mắt 
của nàng Kiều nhưng mỗi lần nàng khóc Tố Như lại có một cách diễn đạt khác nhau. Và 
cứ thế, từ đầu đến cuối tác phẩm, người đọc bị cuốn hút, say mê, bị dằn vặt nỗi đau nàng 
Kiều mà mỗi lần đau là mỗi lần cay đắng khác nhau, muôn hình muồn vẻ, phức tạp như 
chính cuộc sống thực. Cũng là niềm cô đơn Kiều trăn trở, day dứt thâu đêm – nhưng trong 
mỗi hoàn cảnh, sự cô quạnh đó nhuốm sắc thái thật riêng biệt:
 “Một mình mình biết một mình mình hay”.
 Câu thơ tám chữ với bốn lần lập lại chữ “mình” sao chua xót, bẽ bàng đến thế! 
Ngôn ngữ trong tay Nguyễn Du biến hóa diệu kỳ như vẻ đẹp tiếng Việt đã thâu tóm dưới 
đầu ngọn bút. nhận cuộc sống theo riêng mình, đôi khi điều đó trái với quy luật nhưng lại phù hợp với 
tâm hồn người, nó được bạn đọc chấp nhận:
 “Ngoài thềm rơi cái lá đa
 Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.”
 (Trần Đăng Khoa)
 Với các cảm nhận độc đáo của mình, Trần Đăng Khoa đã táo bạo nghe âm 
thanh (thính giác) bằng đôi mắt (thị giác). “Tiếng rơi rất mỏng” như vết cắt hết sức nhẹ 
nhàng của chiều phiến lá “rơi nghiêng” – đêm sau chiến tranh không gian lại yên tĩnh đến 
thế ư? Cách diễn đạt, sử dụng ngôn từ mới mẻ của nhà thơ đã làm nên một hiện tượng 
ngôn ngữ thật đẹp.
 Ngôn ngữ trong văn chương đa dạng, phức tạp như chính cuộc sống hàng ngày 
– qua bàn tay tôi luyện của các nhà văn, ngôn ngữ ấy làm nên sự phon phú của văn 
chương. Phương tiện diễn đạt quyết định cách thành hình của tác phẩm – và nhà văn phải 
rèn luyện, học hỏi không ngừng để ngôn ngừ trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực và sắc bén 
trong tay mình. Lời khẳng định của Nguyễn Tuân là một lời khuyên đáng quý cho những 
người bước vào ngưỡng cửa viết văn và cả cho những ai’yêu thích sự sáng tạo văn 
chương. Nhưng điều đó không có nghĩa là rơi vào chủ nghĩa hình thức, bỏ quên nội dung 
tư tưởng tác phẩm – mà một tác phẩm hay thật sự sẽ kết hợp hoàn hảo giữa nội dung và 
hình thức nghệ thuật – sao cho đó là những bông hoa hương sắc vẹn toàn. Và muốn nghiên 
cứu ngôn ngữ văn chương, ta sẽ luôn nhớ đến lời khuyên của nhà văn “Vang bóng một 
thời”
 “Ở đâu có lao động thì ở dó có sáng tạo ra ngôn ngữ”
 VĂN HỌC LÀ TẤM GƯƠNG PHẢN ÁNH ĐỜI SỐNG
1. Thực tại đời sống là cội nguồn sáng tạo nghệ thuật
 - Không có cuộc sống sẽ không có sáng tạo nghệ thuật. Đối tượng phản ánh của 
văn học là con người trong không gian, thời gian, thiên nhiên, vũ trụ và trong các mối 
quan hệ xã hội. Văn học phản ánh đời sống của con người và nhận thức về con người với 
ước mơ tâm tư nguyện vọng. 
 - Thực tại đời sống là đề tài vô tận cho văn chương khai thác và phản ánh, là chất 
liệu vô cùng phong phú sinh động cho nhà văn lựa chọn và sử dụng trong quá trình sáng 
tạo nghệ thuật. Hiện thực chính là cái nôi nuôi dưỡng nhà văn, là mảnh đất nhà văn sống 
hình thành cảm xúc. "Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học", "Nhà văn 
là người thư kí trung thành của thời đại". Bởi vậy văn học là cuốn “ bách khoa toàn thư” 
về đời sống và con người. Nhà văn lấy chất liệu là cuộc sống hiện thực, từ đó cung cấp 
cho con người nhưng tri thức về xã hội, làm giàu vốn tri thức của con người.
 - Văn học là tấm gương phản ánh đời sống, không bám sát đời sống nhà văn sẽ 
không thể cho ra đời những tác phẩm văn học giàu chất sống, có giá trị. Nếu thoát li thực 
tại, văn chương sẽ rơi vào siêu hình, thần bí. 
2. Không thể đánh đồng thực tại với văn chương

File đính kèm:

  • docxtong_hop_16_chuyen_de_li_luan_van_hoc_lop_9.docx