Ôn thi vào 10 môn Ngữ văn 9 - Chuyên đề Nghị Luận văn học

docx 219 trang thanh nguyễn 23/10/2025 50
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ôn thi vào 10 môn Ngữ văn 9 - Chuyên đề Nghị Luận văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn thi vào 10 môn Ngữ văn 9 - Chuyên đề Nghị Luận văn học

Ôn thi vào 10 môn Ngữ văn 9 - Chuyên đề Nghị Luận văn học
 CHUYÊN ĐỀ NGHỊ LUẬN 
 VĂN HỌC CỰC CHẤT 
 Người thực hiện: GV Lê Thị Mai
 GV chuyên luyện thi văn 9 vào 10
LỜI MỞ ĐẦU
 1 CHUYÊN ĐỀ 1: CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM 
 XƯƠNG
 - Nguyễn Dữ -
 Vấn đề 1: Khái quát những hiểu biết về tác giả, nguồn gốc xuất xứ văn bản và 
thể loại
 I. Tác phẩm
 1. Tác giả Nguyễn Dữ
 - Là gương mặt nổi bật cuả văn học VN thế kỉ XVI
 - Quê ở Hải Dương, chưa rõ năm sinh, năm mất, là học trò xuất sắc của Nguyễn 
Bỉnh Khiêm.
 - Sống trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, “dông bão nổ trăm miền”, xã hội là 
cái “vực thẳm đời nhân loại” chỉ thấy “bóng tối đùn ra trận gió đen”, nên sau khi 
đỗ hương cống, Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hình thức 
bày tỏ thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra 
không gặp thời.
 2. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục”
 a. Thể loại
 Truyền kì là thể văn xuôi trung đại, phản ánh các yếu tố kì lạ, hoang đường, trong 
truyện thế giới cõi âm và con người có sự tương giao với nhau.
 b. Truyền kì mạn lục
 3 thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là cha nó. Khi Trương Sinh về, lúc đó 
mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ đang tập nói, ngây thơ kể với chàng về người đêm 
đêm vẫn đến nhà chàng. Sẵn có tính hay ghen, nay thêm hiểu lầm, Trương Sinh 
mắng nhiếc đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn và 
được Linh Phi cứu. Phan Lang là người cùng làng trong 1 lần chạy nạn đã bị đắm 
thuyền và được vợ vua Nam Hải là Linh Phi cứu. Để bày tỏ ơn cứu mạng ngày xưa 
nên đã bày tiệc tiếp đãi, lúc đó Phan Lang gặp Vũ Nương dưới thủy cung. Sau đó 
Vũ Nương nhờ Phan Lang đem chiếc hoa vàng về cho Trương Sinh và khi Trương 
Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn,chàng lập đàn giải oan cho nàng. Vũ 
Nương trở về thoát ẩn thoát hiện và biến mất.
 II. Phân tích
 1. Chi tiết cái bóng
 a. Cách kể chuyện
 - Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu 
chuyện hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích.
 - Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng 
là nó.
 b. Góp phần thể hiện tính cách nhân vật
 - Đối với Vũ Nương: Trong những ngày chồng đi xa, vì thương nhớ chồng, vì 
không muốn con nhỏ thiếu vắng bóng người cha nên hàng đêm, Vũ Nương đã chỉ 
bóng mình lên tường nói dối con đó là cha, lời nói dối đó hoàn toàn mục đích tốt 
đẹp -> thể hiện sự thương yêu chồng con hết mực
 - Đối với bé Đản: Mới ba tuổi còn ngây thơ, chưa hiểu hết những điều phức tạp 
nên đã tin những điều Vũ Nương nói là có một người cha đêm nào cũng đến, mẹ đi 
cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng nín thin thít và không bao giờ bế nó -> sự ngây 
thơ hồn nhiên của bé Đản.
 5 khôn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, 
mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”
 > Một người vợ rất mực thùy mị, dịu dàng, biết chịu đựng, giàu lòng yêu 
thương, biết chờ đợi để yên lòng người đi xa.
 - Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ 
trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liệu 
tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy 
bướm lượn đầy vườn,mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào 
ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính 
mình đêm ngàyphải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn 
ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi 
thời loạn lạc xưa nay:
 "... Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
 Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
 Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong..." 
 -> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ 
Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
 - Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn 
không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. 
 Vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nư
ớc mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn 
tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ 
 7 khuyên ngăn nhưng Trương Sinh vẫn một mực không tin, bởi vậy để chứng minh 
cho sự chung thủy của mình nàng đã ra sông Hoàng Giang tự vẫn.
 -Đối với người làng là Phan Lang thì trọng tình nghĩa, đối với người cứu 
mình là Linh Phi giữ chữ tín
 +Khi gặp Phan Lang ở dưới thủy cung đã nhận ra ngay đó là người quen biết, và 
nhờ Phan Lang đem chiếc hoa vàng, nói với Trương Sinh lập đàn giải oan để Vũ 
Nương trở về.
 +Khi được Linh Phi cứu thì nàng đã quyết tâm ở lại thủy cung để đền đáp ân đức 
của người, mặc dù khi trở về giải oan xong nàng cũng không ở lại nhân gian vì lời 
hứa đối với Linh Phi.
 => Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng 
trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ 
phẩm chất tốt đẹp.
 2.2. Số phận bất hạnh của Vũ Nương
 * Là nạn nhân của chế độ nam quyền, một xã hội mà hôn nhân không có tình 
yêu và tự do.
 - Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế. 
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng. Vũ 
Nương “vốn con kẻ khó” còn Trương Sinh lại là “nhà giàu” đến độ khi muốn Sinh 
có thể xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách bức giàu nghèo ấy 
khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinhcó thể đối xử 
thô bạo, gia trưởng với nàng.
 * Là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:
 - Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân của chế độ phụ 
quyền phong kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến, củacuộc nội 
chiến huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc,cuộc sống 
vợ chồng kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mìnhVũ Nương 
 9 -Do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã làm cho hai vợ chồng xa cách, từ đó đẩy 
Trương Sinh đến sự ghen tuông mù quáng.
 2.4. Sự trở về của Vũ Nương
 - Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, thể hiện niềm mơ ước của tác giả về một 
kết thúc tốt lành cho người lương thiện, niềm khát khaomột cuộc sống công bằng 
nới cái thiện cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác.
 - Nhưng sâu xa, cái kết thúc ấy không hề làm giảm đi tínhchất bi kịch của tác 
phẩm. Vũ Nương hiện về uy nghi, rực rỡ nhưng đó chỉ là sự hiển linh trong thoáng 
chốc, là ảo ảnh ngắn ngủi và xa xôi. Sau giây phút đó nàng vẫn phải về chốn làng 
mây cung nước, vợ chồng con cái vẫn âm dương đôi ngả. Hạnh phúc lớn nhất đời 
người đàn bà ấy là được sum họp bên chồng bên con cuối cùng vẫn không đạt 
được. Sự trở về trong thoáng chốc và lời từ biệt của nàng đã hé ra cái sự thực cay 
đắng là cái nhân gian đầy oan nghiệt, khổ đau nàykhông có chốn dung thân cho 
người phụ nữ vì thế mà “Thiếp chẳng thể trở lạichốn nhân gian được nữa”
 -> Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một 
số phận cay đắng,oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã hội 
phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con người.
 => Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm 
chất tâm hồn đáng quý củangười phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông 
thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến 
đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ. 
Có lẽ chưa cần nhiều, chỉ cần khai thác chân dung Vũ Nương đã đủ thấy chiều 
sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Dữ.
 2.5. Các chi tiết kì ảo
 a. Những chi tiết kì ảo
 - Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
 11 nam khinh nữ, để cho Trương Sinh – một kẻ thất học, vũ phu ngang nhiên chà đạp 
lên giá trị nhân phẩm của người vợ hiền thục nết na. 
 + Xét trong quan hệ gia đình, thái độ và hành động của Trương Sinh chỉ là sự 
ghen tuông mù quáng, thiếu căn cứ (chỉ dựa vào câu nói vô tình của đứa con ba 
tuổi, bỏ ngoài tai mọi lời thanh minh của vợ và lời can ngăn của hàng xóm). 
 + Nhưng xét trong quan hệ xã hội : hành động ghen tuông của Trương Sinh 
không phải là một trạng thái tâm lí bột phát trong cơn nóng giận bất thường mà là 
hệ quả của một loại tính cách – sản phẩm của xã hội đương thời.
 -Tuy nhiên, nếu Trương Sinh là thủ phạm trực tiếp gây nên cái chết của Vũ 
Nương thì nguyên nhân sâu xa là do chính xã hội phong kiến bất công – xã hội mà 
ở đó người phụ nữ không thể đứng ra để bảo vệ cho giá trị nhân phẩm của mình, và 
lời buộc tội, gỡ tội cho người phụ nữ bất hạnh ấy lại phụ thuộc vào những câu nói 
ngây thơ của đứa trẻ ba tuổi (lời bé Đản). Đó là chưa kể tới một nguyên nhân khác 
nữa: do chiến tranh phong kiến – dù không được miêu tả trực tiếp, nhưng cuộc 
chiến tranh ấy đã tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tới số phận từng nhân vật 
trong tác phẩm (người mẹ sầu nhớ con mà chết; Vũ Nương và Trương Sinh phải 
sống cảnh chia lìa; bé Đản sinh ra đã thiếu thốn tình cảm của người cha và khi cha 
trở về thì mất mẹ). Đây là một câu chuyện diễn ra đầu thế kỉ XV (cuộc chiến tranh 
xảy ra thời nhà Hồ) được truyền tụng trong dân gian, nhưng phải chăng qua đó, tác 
phẩm còn ngầm phê phán cuộc nội chiến đẫm máu trong xã hội đương thời (thế kỉ 
XVI).
 b. Giá trị nhân đạo:
 * Nhận định khái quát về tư tưởng nhân đạo trong văn học:
 -Văn học là một hoạt động sáng tạo của con người nhằm khám phá và khẳng định 
những giá trị của đời sống, nhằm vươn tới những điều tốt đẹp và hoàn thiện của 
con người và cuộc đời. Tư tưởng nhân đạo thường là một tư tưởng lớn thấm nhuần 
trong những nền văn học tiến bộ, trong những tác phẩm văn học ưu tú.
 13

File đính kèm:

  • docxon_thi_vao_10_mon_ngu_van_9_chuyen_de_nghi_luan_van_hoc.docx