Ôn tập Ngữ văn 9 - Chuyên đề Nghị Luận văn học

docx 149 trang thanh nguyễn 23/10/2025 50
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ôn tập Ngữ văn 9 - Chuyên đề Nghị Luận văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập Ngữ văn 9 - Chuyên đề Nghị Luận văn học

Ôn tập Ngữ văn 9 - Chuyên đề Nghị Luận văn học
 Q1
 NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG 
 ( Nguyễn Dữ)
 Đề 1: Phân tích nhân vật của Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con 
 gái của Nam Xương” của Nguyễn Dữ
 Dàn ý tham kháo
 1, Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm
 Viết về người phụ nữ - Một đề tài không còn mới lạ trong văn học, ta có thể 
 kể đến các tác giả như nổi tiếng như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị 
 Điểm đây là những cây bút tiêu biểu cho mảng đề tài này. Bên cạnh đó Nguyễn 
 Dữ cũng là một gương mặt tiêu biểu ngòi bút nhân văn của ông luôn hướng về 
 người phụ nữ. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những 
 tác phẩm đặc sắc của nhà văn Nguyễn Dữ. Qua câu chuyện, nhà văn đã xây dựng 
 hình ảnh Vũ Nương với cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ. 
 2, Thân bài
 a. Khái quát chung
 - Hoàn cảnh ra đời
 - Tóm tắt
 Nhà văn Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế kỷ 
 XVI. Ông sống ở thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, 
 các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ 
 cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông 
 đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai 
 mươi truyện ngắn. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong hai mươi 
 truyện trên.
 b. Phân tích
 * Luận điểm 1: Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết
 - Ngay từ đầu truyện Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người đẹp 
 nết “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”.
 - Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “tam 
 tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung chính là vẻ bề ngoài của 
 nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ “đem 100 lạng vàng cưới về”. Chi tiết này đã tô 
 đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng.
 => Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc hoạ với những nét chân dung về 
 người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong xã hội phong kiến.
 Song có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chúng ta cần phải đặt nhân vật trong 
 những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau:
 Luận cứ 1: Trong mối quan hệ với chồng:Nàng là người vợ thủy chung, yêu 
 thương chồng hết mực.
 * Trong cuộc sống vợ chồng bình thường: nàng hiểu chồng có tính “đa nghi”, 
 “phòng ngừa quá mức” nên Vũ Nương đã khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, 
 giữ gìn khuôn phép nên không lúc nào vợ chồng thất hòa.
 => Nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình, người phụ nữ đức hạnh. Qua đây 
 ta thấy đã hé lộ mâu thuẫn tính cách giữa hai người và đầy tính dự báo.
 1 - Nàng khao khát được trả lại phẩm giá, danh dự: Gửi chiếc thoa vàng, nhờ Phan 
Lang nói với TS lập đàn giải oan cho mình.
- Nàng là người trọng tình, trong nghĩa: Dù thương nhớ chồng con, khao khát 
được đoàn tụ nhưng vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi.
=> Với vai trò là một người vợ, VN là một người phụ nữ chung thủy, mẫu mực, lí 
tưởng trong xã hội phong kiến. Trong trái tim của người phụ nữ ấy chỉ có tình yêu, 
lòng bao dung và sự vị tha.
Luận cứ 2: Trong mối quan hệ với mẹ chồng: Nàng là người con dâu hiếu thảo.
- Vũ Nương đã thay TS làm tròn bổn phận người con, người trụ cột đối với gia 
đình nhà chồng: Chăm sóc mẹ chồng khi già yếu, ốm đau. “Nàng hết sức thuốc 
thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khuyên lơn”.
- Mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, lo liệu ma chay chu đáo đối với cha mẹ 
đẻ mình.
- Lời trăn trối của bà mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình 
cảm chân thành và công lao to lớn của Vũ Nương: “Xanh kia quyết chẳng phụ 
nàng cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Luận cứ 3: Trong mối quan hệ với con: Nàng là người mẹ yêu thương con hết 
mực.
- Thiếu vắng chồng, nàng vẫn một mình sinh con, và nuôi dạy con khôn lớn.
- Không chỉ trong vai trò là một mình sinh con, và nuôi dạy con khôn lớn. Không 
chỉ trong vai trò là một người mẹ, nàng còn đóng vai trò là một người cha hết lòng 
yêu thương con, không để con phải thiếu thốn tình cảm.
- Nàng còn là một người mẹ tâm lí, không chỉ chăm lo cho con về vật chất, mà còn 
lo cho con cả về mặt tinh thần: Bé Đản sinh ra chưa biết mặt cha, lo con thiếu thốn 
tình cảm của cha nên chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo cha Đản. Hơn 
hết, nàng sớm định hình cho con về một mái ấm, một gia đình hoàn chỉnh.
=> VN không chỉ hoàn thành tốt trách nhiệm của một người vợ, người con, người 
mẹ, người cha mà còn là một người trụ cột của gia đình. Nàng xứng đáng được 
hưởng những gì hạnh phúc, tuyệt vời nhất. Thế nhưng trớ trêu thay hạnh phúc đã 
không mỉm cười với nàng.
* Luận điểm 2: Vũ Nương là một người phụ nữ có số phận oan nghiệt.
- Số phận bi kịch: 
 + Chồng đi lính trở về - nghe con - một mực nghi oan - đánh đuổi đi
 + Hết lời thanh minh, bày tỏ nỗi lòng qua lời than => tự vẫn.
-Cái chết của nàng:
 + Tắm gội chay sạch
 + Than
=> Hành động có suy tính => Phản kháng chế độ phong kiến nam quyền bất công
- Nguyên nhân: 
 + Trực tiếp: lời nói ngây thơ của bé Đản
 + Gián tiếp: 
 - TS đa nghi, hay ghen, gia trưởng, thô bạo, thiếu niềm tin và tôn trọng phụ 
 nữ
 3 chàng Trương sinh khiến anh ta đã bao lần khiens Trương Sinh vốn đa nghi liền 
tin ngay Vũ Nương thất tiết, khiến Vũ Nương phải đối mặt với một nỗi oan tày 
trời, không thể thanh minh trước cơn ghen của Trương Sinh, cuối cùng trong nỗi 
đau tuyệt vọng nàng phải chọn cái chết để giải thoát. Nỗi đau về cả thể xác, lẫn 
tinh thần.
 Bên cạnh giá trị về nghệ thuật chi tiết chiếc bóng xuất hiện lần thứ nhất còn có 
những giá trị nội dung rất lớn việc Vũ Nương chỉ bóng mình trên tường và nói với 
bé Đản đó là cha của nó. đã cho người đọc hiểu được tình yêu thương của nàng 
bằng hành động này nàng không muốn đứa con nhỏ của mình bị tổn thương về 
mặt tinh thần, muốn cho con hiểu rằng nó vẫn đang được lớn lên trong hoàn trong 
gia đình có cả cha lẫn mẹ.
 Việc coi bóng mình trên tường là Trương Sinh, còn cho ta thấy Vũ Nương là một 
người vợ có tình yêu thương chồng tha thiết, chiến tranh chỉ có thể khiến nàng xa 
chồng về không gian, thời gian chứ không thể chia cắt về tình nghĩa vợ chồng vô 
tình mà bền chặt, nếu nàng là hình thì Trương Sinh là bóng, bóng và hình luôn 
quấn quýt bên nhau không thể tách.
 Việc sử dụng chi tiết cái bóng xuất hiện trong lời kể của bé Đản còn nhằm tố cáo 
chiến tranh phi nghĩa, bất chính. Cuộc chiến tranh này đã khiến cho bao người phụ 
nữ phải chịu nỗi khổ của người chinh phu xa chồng, lo lắng cho sự nguy nan của 
chồng, một mình gánh vác mọi công việc trong gia đình và luôn phải sống trong 
trông chờ, khao khát.
-Việc Vũ Nương coi cái bóng mình trên tường là chồng còn phản ánh một niềm hi 
vọng, niềm khao khát chính đáng của người chinh phụ nữ đó là khát vọng đoàn tụ. 
Điều này giúp ta hiểu Nguyễn Dữ đã thấu hiểu thật sâu sắc nỗi lòng của người phụ 
nữ khi có chồng đi đánh trận. Mặt khác chi tiết chiếc bóng xuất hiện lần thứ nhất 
còn nhằm gửi gắm tâm sự của Nguyễn Dữ trong xã hội phong kiến xưa ẩn khuất 
quanh người phụ nữ, đặc biệt là những người phụ nữ bình dân và có thể ập xuống 
cuộc đời họ bất cứ lúc nào mà họ không thể lường trước được. Ngoài những ý 
nghĩa nói trên chi tiết chiếc bóng xuất hiện lần thứ nhất còn thể hiện tình cảm ngây 
thơ hồn nhiên của bé Đản một đứa trẻ luôn tin lời người mẹ của mình.
+ Nỗi oan của Vũ Nương xoay quanh chi tiết cái bóng lần thứ nhất (một tình 
huống vì chồng nghi oan là thất tiết) cho ta liên tưởng tới nỗi oan của nhân vật chị 
kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính”. Họ là những người phụ nữ thật đáng 
thương, không có cơ hội thanh minh mỗi khi đối mặt với nỗi oan,
Sau khi Vũ Nương tự vẫn Trương Sinh bé Đản sống lặng lẽ, vào một đêm khuya 
bên ngọn đèn dầu bé Đản trỏ bóng Trương Sinh trên tường và nói “cha Đản lại 
đến kia kìa” Trương Sinh nhìn theo hướng chỉ của bé Đản và lúc mấy giờ anh anh 
mới hiểu ra nỗi oan của vợ. Thì ra người cha trước kia thường đến vào ban đêm, 
luôn kè kè bên cạnh Vũ Nương chính là cái bóng của nàng trên tường cũng giống 
 5 ngai vàng, đánh lại quân Tây Sơn nhưng thực chất chúng muốn thôn tính nước 
ta.
=> Nhận xét: Tình thế nguy kịch trước cảnh của nhân dân trong tình thế “ 
Ngàn cân treo sợi tóc”
- Từ đó càng làm nổi bật lên vai trò và sự anh minh sáng suốt của vua Quang 
Trung khi đánh tan 29 vạn quân Thanh lập lên chiến công lẫy lừng.
a. Lòng yêu nước tự hào, tự tôn dân tộc
- Nghe tin quân Thanh tràn vào Thăng Long, Nguyễn Huệ rất giận định cầm 
quân đi ngay. =>Như vậy chứng tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc, không thể chấp 
nhận được đất nước có giặc ngoại xâm chiếm đóng.
- Lòng yêu nước của vua còn thể hiện rõ nét qua lời phủ dụ. Nhà vua nhắc lại 
tinh thần yêu nước quật cường của dân tộc trong lịch sử gắn với tên tuổi của 
những bậc anh hùng. Điều này chứng tỏ với ông tình yêu nước đã được thấm 
nhuần và trở thành sợi chỉ đỏ chi phối những suy nghĩ hành động vì nước, vì 
dân.
- Khi lên ngôi Nguyễn Huệ xưng “ đế” chứ không phải xưng “vương”. Vì 
vương và vua chỉ là ở một nước nhỏ, một nước chư hầu còn đế là vua của một 
nước lớn để khẳng định sự ngang hàng giữa nước ta với các nước phương Bắc.
b. Hành động mạnh mẽ nhưng quyết đoán
- Trong khoảng thời gian ngắn ( hơn 1 tháng) từ ngày nghe tin quân Thanh tràn 
vào Thăng Long vào ngày 22/11/1788 đến ngày 5/1/1789 ông đã làm được 
nhiều việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, đốc suất đại binh ra bắc, gặp 
người cống sỹ là nguyễn Thiếp ở Nghệ An, tuyển mộ quân lính, mở cuộc duyệt 
binh lớn ở Nghệ An, đọc lời phủ dụ, định kế hoạch hành quân và đánh giặc, lên 
kế hoạch đối phó với quân Thanh sau khi ta chiến thắng.
=> Nhận xét: Từ đầu đến cuối đoạn trích luôn hành động sâu sắc nhanh gọn và 
rất quả quyết. Rõ ràng với ông việc quân Thanh tràn vào Thăng Long không 
làm nao núng tinh thần. Ông vẫn bình tĩnh đưa ra những quyết định và hành 
động đúng đắn để đối phó với quân Thanh.
c. Trí tuệ sáng suốt nhạy bén
- Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc, thế tương quan giữa ta và 
địch: Ông nhận ra rằng dù quân Thanh rất đông chiếm được Thăng Long dễ 
dàng nên sinh thói chủ quan, chúng chỉ tập trung tiệc tùng mà lơi là việc quân 
sỹ. Nhân cơ hội đó nhà vua khẩn trương xây dựng kế sách hành binh, chủ động 
đánh ra Thăng Long đánh bất ngờ quân Thanh.
- Trong lời phủ dụ quân sĩ, ông chỉ rõ dã tâm của giặc hòng biến phương Nam 
thành một quận, huyện của chúng để chúng vơ vét của cải, đàn áp dân lành. 
Hành động của chúng không hợp với lẽ trời, hợp với lòng người, từ đó khích lệ 
được tinh thần đấu tranh của tướng sĩ.
- Việc dùng người của nhà vua cũng thể hiện sự sáng suốt, ông đủ tin mình và 
tin người để trọng dụng những tựu thần của nhà Lê bởi ông nhận ra được cái tài 
và cái tâm của họ. Ông cũng là người hiểu sở trường, sở đoản của các tướng sỹ, 
xử lí đúng người, đúng tội khen chê kịp thời. Khi đến Tam Điệp ông đã tha 
 7

File đính kèm:

  • docxon_tap_ngu_van_9_chuyen_de_nghi_luan_van_hoc.docx