Giáo án Chuyên đề dạy thêm Ngữ văn 6 (Cánh diều) - Chủ đề 4: Hồi kí và du kí
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Chuyên đề dạy thêm Ngữ văn 6 (Cánh diều) - Chủ đề 4: Hồi kí và du kí", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án Chuyên đề dạy thêm Ngữ văn 6 (Cánh diều) - Chủ đề 4: Hồi kí và du kí

CHỦ ĐỀ 4: HỒI KÍ VÀ DU KÍ (3 tiêt) A. Mục tiêu: 1. Năng lực: - Hiểu và phân tích các đặc điểm của thể loại kí qua các văn bản đã học trong bài 3. - Vận dụng kĩ năng đọc hiểu văn bản kí, kiến thức về từ đa nghĩa, từ đồng âm, từ mượn để thực hành đọc hiểu các văn bản hồi kí và du kí ngoài SGK. - Góp phần phát triển các năng lực: tự học, giải quyết vấn đề, hợp tác, sử dụng CNTT. 2. Phẩm chất: - Nhân ái: Trân trọng tình mẫu tử và mối liên hệ giữa thời thơ ấu với cả quá trình hình thành nhân cách con người. - Yêu nước: Hiểu ý nghĩa của việc đi du lịch để mở rộng tầm hiểu biết về thế giới xung quanh, bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, đất nước, thích khám phá của mỗi người. B. Phương tiện và học liệu: - Máy chiếu, máy chiếu vật thể - Các văn bản hồi kí và du kí ngoài SGK C. Tiến trình dạy học: Các hoạt động của GV và HS Dự kiến sản phẩm * HĐ 1: Củng cố kiến thức cơ bản về kí, I. Kiến thức Ngữ văn: hồi kí và du kí. 1. Kí: - GV đặt câu hỏi: - Là loại hình ra đời từ rất sớm 1. Nhắc lại khái niệm về kí, hồi kí và du kí? trong lịch sử văn học, được phân 2. Đặc trưng của hồi kí và du kí được thể chia thành nhiều loại như: nhật hiện như thế nào qua văn bản “Trong lòng kí, hồi kí, kí sự, du kí, phóng sự, mẹ” và “Đồng Tháp Mười mùa nước nổi”? tùy bút, tản văn 3. Khi đọc hiểu một văn bản kí cần chú ý - Tuy vậy, các thể loại của ký vẫn những kĩ năng nào? có những đặc điểm chung: đều là - HS huy động kiến thức đã học để độc lập loại hình văn học có quan điểm suy nghĩ trả lời câu hỏi thể loại là tôn trọng sự thật khách - GV gọi 3,4 HS trả lời; HS khác nhận xét, quan của đời sống, không hư cấu. bổ sung Nhà văn viết kí luôn chú ý đảm - GV tổng hợp kiến thức, nhấn mạnh và bảo cho tính xác thực của hiện khắc sâu 1 số KT sau: thực đời sống được phản ánh 1. Nhìn từ phương thức thể hiện, kí lại trong tác phẩm. được chia thành 2 nhóm là kí tự sự (gồm hồi kí, kí sự, du kí, truyện kí ) và kí trữ 2. Hồi kí: tình (gồm nhật kí, tùy bút, tản văn) - Là thể loại thuộc loại hình kí kể lại những biến cố đã xảy ra trong 1 THƯƠNG NHỚ BẦY ONG Ngày xưa, ông tôi nuôi nhiều ong; đằng sau nhà có hai dãy đõ ong mật. Sau ngày ông tôi mất, cha và chú tôi còn nuôi một ít đõ, nhưng không “vượng” như xưa nữa. Sau nhà có hai “đõ” ong “sây” lắm. Chiều lỡ buổi (khoảng 4 giờ chiều) thì ong bay ra họp đàn trước đõ, và tôi hay ra xem, nhiều khi bị ong đốt nhưng tôi mê xen không thôi. Buồn lắm, cái buồn xa xôi vắng tạnh của chiều quê, của không gian mà tôi cảm nghe từ buổi ấy. Nhất là những lúc cả nhà đi vắng thì tôi buồn đến nỗi khóc một mình, nghe lòng bị ép lại, như trời hạ thấp xuống. Và bầy ong thì vù vù không thôi. Buồn nhất là mấy lần ong “trại”, Nghĩa là một phần đàn ong rời xa, bỏ tổ nhà mang theo một ong chúa. Nếu ong “trại” vào buổi trưa thì thường thường chú tôi biết được và hô lên cho cả xóm ném đất vụn lên không, thế là cả bầy ong mệt lử phải đậu lại ở một cây nào đó hai trở về đõ. Ong đậu lại trên cây, chú tôi hay người khác lại trèo lên bắt mang về đõ cũ hoặc cho vào đõ mới. Nhưng đôi khi ong trại buổi chiều lỡ buổi, vào lúc chú tôi phải ra đồng cày tra (cày ải). Một lần ở nhà một mình, tôi thấy ong trại mà không thể làm gì được. Tôi cũng ném đất vụn lên không nhưng không ăn thua gì. Ong vù vù lên cao, bay mau và mất hút trong chốc lát. Tôi nhìn theo buồn không nói được. Cái buồn của đứa bé rộng lớn đến bao nhiêu, các thi sĩ, văn nhân đã ai nói đến chưa? Tưởng như một mảnh hồn của tôi đã san đi nơi khác. Nơi xa xôi nào đó, tôi đã nhận thấy một phần cốt tủy của linh hồn nhà tôi với bầy ong trại. Một thi sĩ phương Tây ngày trước đã nói đúng lắm: Những vật vô tri vô giác đều có một linh hồn nó vương vấn với hồn ta và khiến ta yêu mến. Cái tổ ong sau thềm nhà, cái giá đặt đõ ong, từng chậu nước con con ở chân giá xanh lè vì rêu bám: bao nhiêu vật nhỏ nhẹ, vụn vặt mà đã gom góp cho tôi những cảm giác đầu tiên, những cái nhìn ngó đầu tiên vào ý nghĩa cuộc đời và vũ trụ. Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại (Huy Cận Hồi kí Song đôi. NXB Hội Nhà văn, 2012. Văn bản do người biên soạn SGK Chân trời sáng tạo tách đoạn và đặt nhan đề) Câu 1. Những dấu hiệu nào đã giúp em biết văn bản trên thuộc thể hồi kí? Câu 2. Trong câu văn “Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại”, theo em, có thể bỏ bớt cụm từ “sau này” hoặc “ngày thơ bé” được không? Vì sao? Từ đó nêu tác dụng của việc sử dụng các cụm từ chỉ thời gian trong hồi kí. Câu 3. Tìm trong văn bản một số từ ngữ, câu văn diễn tả nỗi buồn của nhân vật “tôi” khi chứng kiến bầy ong bỏ tổ bay đi. Em có nhận xét gì về tình cảm mà cậu bé dành cho bầy ong? Câu 4. Để tái hiện lại quá khứ một cách chân thực, sinh động người viết hồi ký có thể tập trung kể lại sự việc, cũng có thể vừa kể lại sự việc vừa kể lại cảm xúc, suy tư của mình trước sự việc ấy. Theo em, “Thương nhớ bầy ong” thuộc trường hợp nào trong hai trường hợp trên? Dựa vào đâu có thể khẳng định như vậy? 3 + Câu chuyện mang những đặc điểm của thể loại hồi kí (đã chứng minh ở trên) + Ở phần cuối, nhân vật “tôi” đã có những chiêm nghiệm sâu sắc về việc sáng tác thơ ca. Huy Cận được biết đến là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Bài tập 2: Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 8 Hang Én nằm ở khu trung tâm trong quần thể núi đá vôi thuộc vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (tỉnh Quảng Bình, Việt Nam); là hang động lớn thứ ba trên thế giới, sau hang Sơn Đoòng (Việt Nam) và hang Deer (Malaysia). Đường tới hang Én xuyên qua rừng rậm; qua dốc cao và ngoằn ngoèo; qua khoảng 30 quãng suối và sông nên chỉ có một phương tiện di chuyển: đôi chân đi bộ. Trekking hang Én, đối với tôi là một hành trình khám phá thú vị, lãng mạn và đầy bí ẩn. Hành trình ấy được khởi đầu bằng con dốc Ba Giàn gần 2km. Dốc cao và gập ghềnh. Đường mòn vừa một người đi, khá trơn, nhiều chặng có cây khô chắn ngang phải trèo qua; hoặc những vòm dây leo giăng chéo phải khom người chui qua. Bù lại, ta sẽ được nhìn tận mắt những gốc cây cổ thụ tán cao vút, thân đầy các loại dây leo; có cả phong lan nữa. Đương nhiên có cả sên, vắt, nhiều loài côn trùng và chim chóc tôi không biết tên Cảm giác về một cuộc “ngược dòng” tìm về với thủa sơ khai đến với tôi ngay khi len lỏi qua cánh rừng nguyên sinh này. Đi hết dốc Ba Giàn là tới thung lũng Rào Thương, được bao quanh bởi con suối cùng tên. Nhiều đoạn đường bằng qua thung lũng - suối róc rách sát chân núi, thảm cỏ, rồi cây cối rậm rạp, lúp xúp, từ đó vẳng ra tiếng chim kêu Thích nhất là khi được lội qua suối. Nước trong vắt, mát lạnh, hiện rõ làn đá cuội nơi đáy suối. Nhiều quãng còn nhìn rõ đàn cá trôi liêu xiêu giữa dòng nước chảy xiết như những chiếc lá trúc khô. Thích vô cùng những đàn bướm đủ màu vàng, trắng, xanh đen - gặp ven đường, ven suối. Chúng đậu thành từng vạt như đám hoa lá ai xếp trên mặt đất. Thấy động, chúng bay lên, lượn vòng, quấn quít cả vào chân người. Bước đi cùng đàn bướm, ngắm những cánh hồ điệp mong manh giữa không gian trong trẻo, im vắng, tôi ngỡ mình đang đi trong một giấc mộng đẹp. Cuộc gặp gỡ với bản Đoòng đưa tôi về thực tại, nhưng là một thực tại khác xa cuộc sống vội vã, sôi động ở “ngoài kia”. Bản chưa đầy chục nóc nhà, chỉ khoảng 3 chục người dân, sống bằng nương rẫy và những sản vật của rừng. Cuộc mưu sinh của họ chắc chắn là nhiều vất vả, khó khăn nhưng trên gương mặt họ không có nỗi lo âu hay sự hoài nghi. Màu da sạm nắng và nét người khắc khổ nhưng vẻ mặt niềm nở, ánh mắt và nụ cười rất hồn nhiên, chân thật. Quãng đường từ bản Đoòng đến hang Én dễ đi và rất đẹp. Hai bên đường là những vạt lau lách rậm rạp; những bãi cỏ bằng phẳng. Trên đầu, bầu trời cao, rộng thênh thang. Những dãy núi trùng điệp được phủ kín cây xanh, mây và khí núi màu lam nhẹ bay vờn qua đỉnh rừng. Cách 1km, đã có thể nhìn thấy vòm hang Én. Và hãy tin tôi, những mệt mỏi của một ngày leo dốc, lội sông hơn 10 cây số sẽ tiêu tan ngay trong khoảnh khắc ta đứng trước hang Én– không gian được hình thành từ 400 – 500 triệu năm trước. 5 thành luồng hòa với hơi nước mỏng thành lãng đãng khói mơ. Ai nấy nhoài ra khỏi lều, chân trần chạy lòng vòng dọc bờ sông, rồi ngồi ngay trên bờ vục nước rửa mặt, hít căng lồng ngực thứ không khí mát lành, trong vắt. (Theo Hà My-Trang Thông tin điện tử Sở Du lịch Quảng Bình-ngày 14/10/2020) Câu 1. Nhân vật tôi đã kể về hành trình khám phá Hang Én theo trình tự nào? Câu 2. Tìm những chi tiết miêu tả địa hình, cây cối, loài vật trên đường đến Hang Én. Những chi tiết này gợi cho em cảm giác gì về rừng nguyên sinh? Câu 3. Qua bài kí, em hiểu được gì về sự “sống” của đá và cuộc sống của loài én chưa biết “sợ con người”? Câu 4. Hình ảnh nào trong bài thể hiện sự trân trọng, lòng biết ơn và tình yêu của con người đối với tự nhiên. Câu 5. Tâm trạng của du khách khi sống trong không gian hang Én, thiếu thốn các tiện nghi thông thường được miêu tả qua những chi tiết nào? Câu 6. Cách tác giả cảm nhận về cuộc sống hoang dã có làm cho người đọc khiếp sợ không? Vì sao. Câu 7. Có ý kiến cho rằng hành trình khám phá hang Én thích hợp với những người ưa mạo hiểm. Theo em, hành trình này còn đánh thức điều gì ở con người. Câu 8. Viết đoạn văn (khoảng 5 - 7 câu) nêu cảm nhận của em về hang Én. * Dự kiến sản phẩm: Câu 1. - Không gian: Từ ngoài vào trong, hành trình khởi đầu từ con dốc Ba Giàn, đến thung lũng Rào Thương để đến với Hang Én. - Thời gian: từ sáng khi hành trình bắt đầu, đến khi bóng tối chùm xuống Hang Én. Câu 2. - Dốc cao và gập ghềnh. Đường mòn vừa một người đi, khá trơn, nhiều chặng ó cây đổ chắn ngang hoặc những vòm dây leo giăng kín. - Rất nhiều cây cổ thụ tán cao vút, thân đầy các loại tầm gửi, có cả phong lan đang nở hoa. - Con đường qua thung lũng trải theo tiếng suối róc rách, thảm cỏ, rồi cây cối rậm rạp, lúp xúp, từ đó vẳng ra tiếng chim kêu đủ giọng. - Nước trong vắt, mát lạnh, thấy cả làn đá cuội nơi đáy suối. Nhiều quãng còn nhìn rõ đàn cá bơi liêu xiêu giữa dòng nước chảy xiết như những chiếc lá trúc khô. -Yêu vô cùng.. chân người. => Vẻ đẹp hoang sơ mà thơ mộng của cánh rừng nguyên sinh. Câu 3. - Sự “sống” của đá: + Hàng trăm dải đá san hô uốn lượn thành bao nhiêu tầng, bậc lớn nhỏ. + Nhũ đá, măng đá, ngọc động giăng đầy bên những vách núi, sàn hang + Mỗi xen-ti-mét đá kia phải qua cả trăm triệu năm bào mòn hay bồi đắp nên. - Cuộc sống của loài én chưa biết sợ con người: + Én: Hồn nhiên cư ngụ và chưa biết sợ con người. + Bốn bên dày đặc én. 7
File đính kèm:
giao_an_chuyen_de_day_them_ngu_van_6_canh_dieu_chu_de_4_hoi.docx