Dạy thêm Ngữ văn 7 (Kết nối tri thức) - Chuyên đề Tiểu thuyết
Bạn đang xem tài liệu "Dạy thêm Ngữ văn 7 (Kết nối tri thức) - Chuyên đề Tiểu thuyết", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Dạy thêm Ngữ văn 7 (Kết nối tri thức) - Chuyên đề Tiểu thuyết

2. TIỂU THUYẾT: ĐỀ 1: Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy năm về trước, gã một mình bơ một chiếc xuồng nát đến che lều ở giữa khu rừng đầy thú dữ này. Gã sống đơn độcmột mình, đến con chó để làm bạn cũng không có. Hồi ấy, rừng này còn nhiều hồ lắm. [...] Một buổi trưa, gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mà vào, từ ngoài sản phỏng một cái phủ lên người gã. Bất thần gã tỉnh dậy. Gã và luôn cái mặc bên người, cũng không kịp ngồi dậy nữa, cử nằm ngửa thế mà xóc mũi mặc lên đảm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chúa, hai chân gã đã thốc lên bụng nó, không cho con ác thủ kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mặc đảm từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không hả hạng được, nhưng vẫn còn cố vớt cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên "Võ Tòng" hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa, gã là một chàng trai hiền lành, ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai. Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy, lúc có chứa đứa đầu lòng, cử kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, quý vợ rất mực ấy bên liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ, tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một mực cãi lại, nhưng tên địa chủ quyền thế nhất xã ấy cử vung ba trong đánh lên đầu gã. “Đánh đâu thì còn nhịn được, chử đánh lên đầu là nơi thờ phụng ông bà... thì số mày tôi rồi!". Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba trong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát dao chém trả vào mặt đã gi tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu. Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc, bỏ tay chịu tội. Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ thì nghe tin vợ đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh. Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất vọng. Gã chỉ kêu trải một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự quả quyết rằng chính gã đã mang tên "Võ Tòng" từ lúc xách dao đến nhà việc chịu tội. Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn rực trên người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu vết trong những năm gã ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang hồ. Hơn mười năm sống trơ trọi giữa rừng, mặc dầu, cũng có nhiều người đánh tiếng mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kì hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác, thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình không. Điều đó, mà nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chắn như vậy... nuôi của An), nhân vật “tôi” và đặc biệt là chú Võ Tòng.... Đó là những con người sống chan hoà với thiên nhiên, tính cách trung thực, thẳng thắn, trọng nghĩa khinh tài, anh dũng, luôn vì nghĩa lớn,. 6. - Chi tiết con vượn bạc má xuất hiện 4 lần trong đoạn trích. - Chi tiết này tạo cho em ấn tượng gì về nhân vật Võ Tòng và bối cảnh của truyện là: Đây là lần đầu nhân vật “tôi” gặp chú Võ Tòng trực tiếp tại “nhà” của chú là chiếc lều giữa rừng (trước đó chỉ gặp qua ở bờ sông và chủ yếu là nghe qua lời kể của vợ chồng ông Hai); thời gian gặp lại vào ban đêm về sáng. Tiếng con vượn bạc má kêu “ché..ét, chéét”, “ngồi vắt vẻo trên một thanh xà ngang, nhe răng dọa tôi” làm cho bối cảnh của cuộc gặp gỡ mang màu sắc hoang sơ, li kì, Chi tiết đó cũng làm người đọc có ấn tượng mạnh mẽ về nhân vật Võ Tòng: một người sống trần trụi như muông thú giữa thiên nhiên. 7. - Qua lời kể của chú bé An, Võ Tòng là một con người có hình dáng bề ngoài rất kì lạ, như người rừng; như người từ thuở hoang sơ: “Dường như những cái bóng lặng lẽ ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kì loài người mới tìm ra lửa vậy.”, nhưng lại là một người rất gần gũi, ấm áp và kiên cường. Đây là ấn tượng của nhân vật An lúc mới vào lều của chú Võ Tòng: “Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp chú lần đầu tiên ở bờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy? - Chú Võ Tòng là người giản dị, dũng cảm, mạnh mẽ và không sợ bất cứ khó khăn nguy hiểm nào.8. Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu: 8. a) Có thể thấy, đoạn trích tập trung khắc hoạ nhân vật Võ Tòng từ các phương diện: xuất thân (lai lịch); hành động, việc làm (giết hổ, đánh trả địa chủ, sẵn sàng nhận tội, đi tủ, trở về và bỏ vào rừng sống một mình,...). Người kể lại câu chuyện trong đoạn trích trên kể theo ngôi thứ ba. Đến phần cuối đoạn trích, tác giả lại chuyển về kể theo ngôi thứ nhất (xưng “tôi”). Ngôi kể ở đoạn trích này có tác dụng khắc hoạ chân dung Võ Tòng một cách khách quan, sinh động hơn, giúp người đọc nhìn nhận từ nhiều phía khác nhau,... b) Câu văn: “Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác, thật thả, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại minh không." là lời nhận xét của bà Hai — má nuôi của An – về Võ Tòng, Người nhận xét ấy không phải là người kể trong đoạn trích mà do người kể (nhân vật An) nhắc lại. c) Các em tham khảo gợi ý ở bài tập 7. Vẽ nhân vật Võ Tòng theo hình dung của em dựa vào đoạn trích. Có thể vẽ bằng tranh, cũng có thể miêu tả bằng lời về nhân vật ấy, Câu 2: Yêu cầu: Nêu được cảm nghĩ về nhân vật: cảm nghĩ về cách cư xử; Cảm nghĩ về hành động,. Cảm nghĩ về cách xây dựng nhân vật: Đặt vào tình huống để bộc lộ tính cách. Câu 3: cấu tạo ngữ pháp: Hai người //giằng co nhau du đẩy nhau, rồi ai nấy// đều buông gậy ra, áp vào vật nhau. -> Câu ghép Câu 4: a. Phép tu từ so sánh - Tác dụng: Miêu tả hành động nhanh nhẹn của chị Dậu b. Nhanh như chớp; Nhanh như điện; Nhanh như gió; Nhanh như sóc; Nhanh như tên Câu 5: 1. Mở bài: - Giới thiệu hoàn cảnh gia đình chị Dậu. - Tình huống người kể sang nhà chị Dậu. 2. Thân bài - Diễn biến sự việc + Chị Dậu đang chăm sóc chồng + Thái độ của tên cai lệ và tên người nhà lý trưởng khi mới đến, Chị Dậu cầu xin ra sao + Cao trào của sự việc (thái độ hung hãn của tên cai lệ, sự phản ứng qua từng cách xưng hô của chị Dậu, hai bên lao vào) + Kết quả sự việc qua lời khẳng định của chị Dậu 3. Kết bài - Ca ngợi hành động của chị Dậu vì thương chồng đã dũng cảm đứng lên bảo vệ chồng. - Khẳng định ý nghĩa của quy luật có áp bức, có đấu tranh ĐỀ 3: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: “ Bước lên sàn điếm, Lý trưởng quăng tạch cuốn sổ xuống sàn, giơ tay chỉ vào mặt mấy tên đàn em: - Hiệu không thổi, để làm sỏ bố chúng bay à? Một hồi còi tu tu đồng thời nổi lên, hiệu sừng sen với hiệu ốc theo đúng hiệu ốc cố theo đúng mệnh của "nhất lý chi trưởng". Ðập hai bàn chân vào nhau, rũ cho sạch bụi, rồi co chân lên ngồi vào chiếu, Lý trưởng vớ luôn lấy chiếu điếu cầy và sai tuần phủ lấy đóm, thổi lửa. Mấy anh thợ cày của những điền chủ đã nộp đủ thuế, bạo dạn tiến đến Trong cuộc thoại trên có: 3 nhân vật (có 2 nhân vật có lời thoại) 2 - Lý trưởng: Có 3 lượt lời - Thợ cày: Có 1 lượt lời Trong đoạn trích trên là cuộc thoại giữa Lý trưởng với thợ cày. Thợ 3 cày xin được mở cổng làng cho trâu đi cày, nhưng ông Lý chưa cho vì còn nhiều người chưa nộp thuế. *Giá trị nội dung: Bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã vạch rõ bộ mặt xấu xa, tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đương thời đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng khốn khổ, bế tắc, khiến họ phải liều mạng cự lại. Đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ *Giá trị nghệ thuật 4 + Nghệ thuật tạo tình huống truyện có tính kịch + Nghệ thuật xây dựng nhân vật: miêu tả nhân vật chân thật, sinh động về ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, tâm lí. + Đoạn trích tiêu biểu cho ngòi bút hiện thực, ngôn ngữ kể chuyện vô cùng linh hoạt. *Từ nội dung văn bản, em rút ra được quy luật: Tức nước vỡ bờ, có áp bức có đấu tranh Giải thích để người ngược đãi hiểu đó là việc làm vi phạm luật bình đẳng giới, vi phạm quyền trẻ em. - Chạy báo để mọi người xung quanh cùng biết, cùng can ngăn, đưa 5 người bị hại ra khỏi nơi bị ngược đãi. - Báo cho chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng gần nhất để kịp thời xử lý kẻ ngược đãi.
File đính kèm:
day_them_ngu_van_7_ket_noi_tri_thuc_chuyen_de_tieu_thuyet.docx