Chuyên đề Tiếp cận văn bản “Chí Phèo” theo hướng tích cực, đổi mới - Ngữ văn 11

doc 31 trang thanh nguyễn 09/11/2025 280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Tiếp cận văn bản “Chí Phèo” theo hướng tích cực, đổi mới - Ngữ văn 11", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Tiếp cận văn bản “Chí Phèo” theo hướng tích cực, đổi mới - Ngữ văn 11

Chuyên đề Tiếp cận văn bản “Chí Phèo” theo hướng tích cực, đổi mới - Ngữ văn 11
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ TĨNH
 TRƯỜNG THPT HỒNG LĨNH 
 --------
 CHUYÊN ĐỀ THÁNG 11
Tên đề tài:
 Tiếp cận văn bản “Chí Phèo” theo hướng tích cực, đổi mới
 Giáo viên: Phạm Thị Thái Hòa
 Tổ: Ngữ Văn 
 2. Mục đích nghiên cứu
 Đề tài hướng đến mục đích nâng cao chất lượng dạy học trong quá trình đọc 
hiểu văn bản Chí Phèo ở chương trình lớp 11, qua đó góp phần cải tiến PPDH 
theo tinh thần mới: phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở học sinh.
 3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
 3.1. Đối tượng nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là phát triển khả năng tích cực, đổi mới 
cho học sinh lớp 11 qua giờ đọc hiểu văn bản Chí Phèo của nhà văn Nam Cao .
 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
 - Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về khả năng tích cực, đổi mới 
cho học sinh lớp 11 qua giờ đọc hiểu văn bản Chí Phèo .
 - Đề xuất những phương pháp, cách thức phát triển khả năng tích cực, đổi 
mới cho học sinh trong giờ đọc hiểu văn bản truyện.
 - Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xem xét khả năng ứng dụng của đề tài 
trong việc nâng cao hiệu quả dạy học văn bản truyện.
 4. Phạm vi khảo sát
 Phạm vi tài liệu khảo sát của đề tài là phát triển khả năng tích cực, đổi mới 
cho học sinh 11 qua giờ đọc hiểu văn bản Chí Phèo.
 5. Phương pháp nghiên cứu
 Xuất phát từ đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu, chúng tôi sử dụng 
phối hợp nhiều phương pháp thuộc hai nhóm nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu 
thực tiễn:
 - Dùng phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phân loại và hệ thống 
hoá lý thuyết để tổng thuật, đánh giá những công trình nghiên cứu đã có liên quan 
đến đề tài.
 - Dùng các phương pháp quan sát và điều tra để nắm bắt những dữ liệu cần 
thiết về hoạt động phát triển khả năng “đồng sáng tạo” cho HS qua giờ dạy đọc 
hiểu văn bản Chí Phèo. 
 - Dùng phương pháp thực nghiệm để thẩm định tính khoa học, tính khả thi 
của hệ thống phương pháp, biện pháp được đề xuất trong đề tài về vấn đề phát triển 
khả năng tích cực, đổi mới cho học sinh lớp 11 qua giờ đọc hiểu văn bản Chí Phèo 
được các nhà lí luận sử dụng trong tiếp nhận văn học để chỉ người đọc. “Tính chất 
“đồng sáng tạo” được hiểu là sự tham gia của người đọc vào tiến trình đọc để xây 
dựng ý nghĩa cho tác phẩm” [11, tr. 85]. GS. Trần Đình Sử trong bài viết Tiếp 
nhận - bình diện mới của Lí luận văn học in trong cuốn lí luận và phê bình văn học 
đã khẳng định sức sống của tác phẩm văn học phụ thuộc vào nhu cầu của người 
đọc. Chính nhu cầu của người đọc, khả năng phát hiện, sáng tạo của nó đã làm cho 
các tác phẩm nghệ thuật có tầm cỡ nghệ thuật trở nên bất tử. Người đọc là người 
góp phần tạo nên những diện mạo mới cho tác phẩm. Nhà văn khi sáng tạo tác 
phẩm có diện mạo riêng trong ý tưởng nghệ thuật của mình. Tuy nhiên trong quá 
trình tiếp nhận của người đọc, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, 
người đọc có thể “đọc nhầm”, “đọc khác”, đem lại diện mạo mới cho tác phẩm. 
Người đọc kéo dài sinh mệnh cho tác phẩm, để cho tác phẩm văn học “luôn luôn 
mở”, luôn nằm trong “quá trình” - không bao giờ dừng lại. Chừng nào người đọc 
không đọc nó nữa, nó chỉ còn trên văn bản giấy. Không có sự tiếp nhận, sự tham 
gia của người đọc, tác phẩm sẽ chết, chấm dứt sinh mệnh: “Khi tác phẩm kết thúc, 
ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự bắt đầu” [13, tr. 3]. Khi nhà văn sáng tạo 
tác phẩm, không thể miêu tả toàn bộ hiện thực mà chỉ chọn lấy những chi tiết, 
đường nét tiêu biểu, điển hình, giàu sức biểu hiện. Sáng tạo của người đọc là tìm 
lại, bổ sung cho hoàn chỉnh, phát hiện lại, làm sống dậy thế giới hình tượng có tính 
biểu diễn để hiểu nó và đồng cảm với tác giả, đôi khi có sự cắt nghĩa bất ngờ. Sự 
sáng tạo của tác giả và độc giả căn bản khác nhau. Nhà văn sáng tạo cái mới còn 
bạn đọc hỗ trợ sự sáng tạo ấy cho hoàn chỉnh thế giới nghệ thuật. Đó là hiện tượng 
đồng sáng tạo trong tiếp nhận.
 Như vậy, người đọc chính là người tạo nên sức sống của tác phẩm. Trong 
vòng tròn tác giả - tác phẩm - người đọc, người đọc giữ vai trò quan trọng - tác 
phẩm chỉ tồn tại khi và chỉ khi tồn tại người đọc. 
1.2. Tích cực, đổi mới với vấn đề dạy đọc hiểu văn bản văn học 
 Đọc hiểu văn bản là một thuật ngữ chỉ tên gọi của một hoạt động trong phạm 
vi môn Ngữ văn khi đối tượng chiếm lĩnh của GV và HS là VBVH. Mục đích của 
đọc hiểu là hình thành và duy trì những ấn tượng nghệ thuật để HS tiếp tục đi sâu 
vào nội dung tư tưởng và hình thức ngôn ngữ tác phẩm. Theo tinh thần này, đọc 
hiểu VBVH chính là hoạt động giải mã và giao tiếp với VB để giải thích và kiến 
tạo ý nghĩa của VB. Trong lí thuyết tiếp nhận, người đọc là “đồng sáng tạo” của 
tác giả thì trong dạy học đọc hiểu VBVH, HS chính là người “đồng sáng tạo” dưới 
sự hướng dẫn, dẫn dắt của GV. Việc xây dựng ổn định khái niệm người đọc - HS 
là bước đột phá mang ý nghĩa nhận thức về người dạy và người học. Nếu không 
hiểu đúng khái niệm “người đọc” trong lí thuyết tiếp nhận văn học, chúng ta sẽ 
không thể hiện thực hoá “HS - bạn đọc”. Ý nghĩa, tư tưởng của tác phẩm không 
 - Do áp lực về thời gian (mỗi VB truyện chỉ dạy trong 2 đến 3 tiết) nên GV 
chưa tập trung rèn kĩ năng đọc - hiểu VB tự sự để HS có thể tự đọc một VB khác 
cùng thể loại ngoài CT. Đây lại là điểm mấu chốt, quan trọng trong đọc - hiểu VB 
hiện nay. 
 - Do áp lực thi cử, một số GV chạy theo thành tích khiến cho một tiết đọc 
hiểu VB truyện trở thành một tiết “giảng văn”. Cô say sưa với bài giảng của mình, 
thuyết giảng tất cả vốn hiểu biết của mình về tác phẩm cho HS nghe, ghi chép. HS 
nghe thì thấy hay nhưng nghe xong thì dễ quên ngay. Văn chương thể hiện cái tôi 
rất rõ, bởi thế HS không thể nhớ nguyên xi lời văn của thầy dù các em có cố gắng 
bắt chước, học thuộc lòng. 
 - Chưa thay đổi quan niệm về người học và việc đánh giá người học; chưa 
thực sự chú ý đến người học - nhu cầu, mong muốn, hứng thú của các em; chưa 
khuyến khích HS tìm tòi, sáng tạo; sự tương tác giữa GV - HS, HS - HS còn hạn 
chế. 
 - HS học thụ động, học máy móc; không có kĩ năng đọc hiểu VB tự sự, 
không thể đọc hiểu những VB tương tự; chưa biết vận dụng những kiến thức đã 
học vào thực tế cuộc sống; thiếu sáng tạo và không biết cách tự học; thiếu động cơ 
học tập.
 - Khả năng tiếp nhận TPVH của HS còn hạn chế; chưa hiểu rõ đặc trưng loại 
thể tự sự; HS chưa phát hiện và lí giải được những vấn đề đặt ra trong tác phẩm, 
chưa thấy được sự thống nhất nội dung và hình thức biểu hiện của VB, không biết 
tìm kiếm kiến thức trọng tâm để học, không biết từ cái đã biết mà suy ra cái chưa 
biết. Kĩ năng nói, viết, trình bày vấn đề còn yếu. 
 II. BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG TÍCH CỰC, ĐỔI MỚI
 CHO HỌC SINH QUA DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN
 TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11
 1. Dựa vào Tiểu dẫn, bối cảnh ra đời tác phẩm, giúp học sinh hình dung 
động lực, tâm thế sáng tạo của tác giả
 Mỗi bài đọc - hiểu văn bản trên lớp thường được chia thành bốn phần lớn: I. 
Tiểu dẫn; II. Đọc - hiểu văn bản; III. Tổng kết; IV. Củng cố, dặn dò. Tìm hiểu phần 
Tiểu dẫn là cơ sở để hướng tới Đọc - hiểu văn bản một cách hiệu quả. Tìm hiểu 
phần Tiểu dẫn sẽ giúp HS nắm được tri thức về văn học sử như kiến thức về bối 
cảnh thời đại, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của 
phát huy được các năng lực và phẩm chất của HS. Dạy học thông qua hệ thống câu 
hỏi sẽ tạo ra được sợi dây liên kết, mối quan hệ tương tác chặt chẽ giữa GV - HS, giữa 
HS - HS. 
 Để tạo nên giờ học cởi mở, mang tính đối thoại cần phải thông qua câu hỏi. 
Việc đặt câu hỏi đối với HS trong quá trình đọc - hiểu VBVH: “Có ý nghĩa làm 
thay đổi tình thái của giờ học, hay nói cách khác là mở ra tình huống “có vấn đề”, 
xác định tâm thế thực tại và đặt HS vào các yêu cầu của việc nhận thức” [34, tr. 
160]. Hệ thống câu hỏi trong bài đọc - hiểu văn bản có thể gồm những dạng câu 
hỏi sau: câu hỏi phát hiện; câu hỏi phân tích; câu hỏi so sánh; câu hỏi tranh luận; 
câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng Câu hỏi khơi gợi trí liên tưởng, tưởng tượng cho 
HS được xây dựng dựa trên quá trình tiếp nhận tác phẩm truyện, GV phải giúp HS 
cảm nhận được giá trị nội dung và nghệ thuật đặt ra trong tác phẩm, giúp người 
học nhận thức được tư tưởng, thông điệp mà nhà văn hướng tới độc giả. Muốn vậy 
người học phải dùng trí liên tưởng tưởng tượng để hình dung ra được ý đồ, quan 
điểm, tư tưởng của nhà văn gửi gắm thông qua tác phẩm. 
 Câu hỏi khơi gợi trí tưởng tượng là một bộ phận trong hệ thống các câu hỏi 
phát huy khả năng đồng sáng tạo của HS trong quá trình đọc - hiểu văn bản. Câu 
hỏi khơi gợi trí tưởng tượng là “dạng câu hỏi phải kích thích được HS tạo nên các 
hình ảnh của những cái chưa bao giờ thấy “tránh chủ quan và bịa đặt”, loại câu hỏi 
này đi vào những bức tranh nghệ thuật bộ phận, sắc sảo, tinh tế, có tính chất phát 
hiện sáng tạo” [15, tr. 45]. Dạng câu hỏi có khả năng khơi gợi trí tưởng tượng của 
HS là câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng. Theo TS. Nguyễn Trọng Hoàn, câu hỏi liên 
tưởng, tưởng tượng có nhiều hình thức như: 
 - Liên tưởng bối cảnh hiện thực trong tác phẩm với hiện thực đời sống xã 
hội.
 - Liên tưởng giữa các nhân vật, chi tiết, tình huống nghệ thuật, điểm sáng 
thẩm mĩ 
 - Liên tưởng hình ảnh, hình tượng, biểu tượng của tác phẩm này với các tác 
phẩm khác.
 - Liên tưởng giọng điệu tác giả với thái độ tư tưởng, quan điểm nghệ thuật 
của tác giả.
 - Tưởng tượng tâm trạng của tác giả khi lựa chọn một chi tiết hay một số 
hình ảnh tiêu biểu của tác phẩm.
 - Liên tưởng và tưởng tượng về điểm nhìn nghệ thuật của tác giả với hiệu 
quả nghệ thuật của tác phẩm.
 Khi đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao, hướng dẫn HS tìm hiểu 

File đính kèm:

  • docchuyen_de_tiep_can_van_ban_chi_pheo_theo_huong_tich_cuc_doi.doc