Chuyên đề Thể kí - Ngữ Văn Lớp 12
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Thể kí - Ngữ Văn Lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Thể kí - Ngữ Văn Lớp 12
Chuyên đề Ngữ văn 12 Thể Kí THỂ KÍ CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 A. ĐẶC TRƯNG THỂ KÍ: Các nhà nghiên cứu văn học đã nêu ra nhiều cách tiếp cận để nhận diện kí, nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một hệ thống lý thuyết thống nhất cho thể loại văn học này. Song, có thể thấy nổi bật ở kí (tùy bút và bút kí) những đặc trưng cơ bản sau: - Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, kí đòi hỏi sự trung thực, chính xác. Người viết kí thường quan tâm, tôn trọng những sự kiện xã hội lịch sử, những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra trong đời sống. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành, có thời gian, địa điểm, hành động, và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh, gợi không khí. - Tác giả kí khéo sử dụng tài liệu đời sống kết hợp với tưởng tượng, cảm thụ, nhận xét, đánh giá. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện suy tưởng nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc. Cái thú vị của kí là ở những ý riêng, suy nghĩ riêng của tác giả được đan cài với việc tái hiện đối tượng. Vì vậy, sức hấp dẫn của kí chính là ở khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động của tác giả. Kí ít chấp nhận sự hư cấu, do đó phải dựa vào những liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, tài hoa của tác giả khi phản ánh sự vật, cuộc sống. Điều ấy làm nên cái hay cái đẹp của một tác phẩm kí. - Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là tính chủ quan, chất trữ tình sâu đậm của cái tôi tác giả. Cho nên, sức hấp dẫn của kí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của cái tôi ấy (thường là những cái tôi phong phú, uyên bác, tài hoa, độc đáo). Những đặc trưng cơ bản trên đây của tác phẩm kí sẽ là điểm tựa cho giáo viên trong việc giảng dạy tác phẩm kí theo đặc trưng thể loại. - Đọc hiểu tác phẩm xuất phát theo đặc trưng thể loại: + Sự nhập nhằng về ranh giới thể loại, thiếu thống nhất về loại hình (khi gọi tùy bút, khi gọi bút kí) là những trở ngại dễ thấy nhất khiến cho việc giảng dạy kí gặp nhiều vướng mắc. + Vì thế, bên cạnh nhiều cách để giáo viên và học sinh tiếp cận tác phẩm thì phương pháp hiệu quả nhất vẫn là đọc hiểu tác phẩm xuất phát theo đặc trưng thể loại. Với thể loại kí, việc tìm hiểu theo đặc trưng thể loại lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Nắm vững và bám vào đặc trưng của kí, người đọc sẽ khám phá được cái hay cái đẹp của tác phẩm. Sông Đà và sông Hương khi đi vào hai tác phẩm của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành đối tượng thẩm mĩ của nhà văn. Con sông Đà nếu chỉ được Nguyễn Tuân ghi chép bằng những số liệu đơn thuần như một nhà địa lí thì cái phần hồn hung bạo và thơ mộng của nó sẽ không được phát hiện. Dòng sông Hương của xứ Huế thơ mộng cũng vậy. Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ ghi lại các khúc đoạn trong dòng chảy của nó từ thượng nguồn về với Huế không thôi sẽ không có gì hấp dẫn, cái hấp dẫn nằm chính ở chỗ tác giả tưởng tượng sông Hương như một con người có số phận, có tâm hồn, có hành động cụ thể dưới những điểm nhìn khám phá khác nhau. Khi thì sông Hương như một cô gái mang trong mình tình yêu tha thiết với thành phố Huế; khi lại là một người mẹ sản sinh cho xứ Huế những giá trị văn hóa truyền thống cùng âm nhạc, thi ca; khi lại là một chứng nhân, chủ nhân của những thời kì lịch sử đầy oai hùng, hiển hách của một xứ sở. Phát hiện và đánh giá được óc quan sát, trí liên tưởng tưởng tượng, năng lực sử dụng ngôn ngữ của nhà văn trong tác phẩm kí. Sức hấp dẫn của kí chính là ở khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động của tác giả. Nếu chỉ đơn thuần là ghi chép thì tác phẩm kí sẽ hết sức khô khan, không gây được ấn tượng đối với người đọc. - Với tác phẩm Người lái đò sông Đà: + Khi khám phá vẻ hung bạo của con sông, cần nhận thấy liên tưởng nhất quán của Nguyễn Tuân. Nhà văn hình dung sông Đà như một con thủy quái khổng lồ, có tâm địa đen tối, với biết bao tướng dữ quân tợn vây quanh. Đã thế, con thủy quái mang tên sông Đà còn có hành động, mưu mô ác độc đối với thuyền và người trên sông. Như vậy, nhờ vào khả năng sử dụng ngôn ngữ liên ngành và trí tưởng tượng tài hoa của tác giả, học sinh vừa hiểu về đặc điểm thực của sông Đà ở thượng nguồn, vừa bị cuốn hút vào tài năng miêu tả của Nguyễn Tuân. + Khi khám phá vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông, lại cần phải phát hiện ra sự thay đổi di chuyển điểm nhìn và cách miêu tả. Sông Đà không chỉ là quái thú sông nước nữa, mà đã lột xác trở thành người thiếu nữ có mái tóc tuôn dài, thành cố nhân đầy nỗi niềm lâu ngày gặp lại... Điểm nhìn đa Gv: Nguyễn Thị Thảo - 1 - Lưu Văn Liệt Chuyên đề Ngữ văn 12 Thể Kí B. ĐỌC HIỂU TỪNG TÁC PHẨM CỤ THỂ: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Trích- Nguyễn Tuân) A. Vẻ đẹp hình tượng con sông Đà: Con sông Đà được miêu tả như một nhân vật có tính cách, hành động, tâm lí, hệt như con người, sống động như con người, hơn thế sông Đà còn là một trong hai hình tượng nhân vật trung tâm, bao trùm tác phẩm. Nhà văn đã xây dựng sông Đà nổi bật với hai tính cách hung bạo và trữ tình. a) Vẻ đẹp hùng vĩ và hung bạo của sông Đà được thể hiện qua nhiều yếu tố: Cảnh đá: -“dựng vách thành”-ở bờ sông -“chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”-ở lòng sông (so sánh) thành sông sừng sững, hùng vĩ, địa thế hiểm trở bởi cảnh đá đã tạo nên quãng sông hẹp, lưu tốc dòng chảy rất lớn đến độ “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Ông còn hiểu được trạng thái tâm lí, cảm giác lạnh lẽo, rờn rợn của con người khi ngồi thuyền vượt quãng sông ấy” Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang màu hè mà cũng thấy lạnh,.” câu văn so sánh chính xác, bất ngờ tạo kho ấn tượng mới mẻ gây chấn động trí tưởng tượng và cảm xúc của người đọc. Ghềnh sông: “ Mặt ghềnh Hát Lóong, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm” (cấu trúc trùng điệp, nhịp ngắn, dồn dập)nước mạnh, đá to, sóng lớn, gió dữ mặt sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn Cái hút nước: -“như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu” -“thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” (so sánh và nhân hóa) nước xoáy tròn, sâu hút, lực nước mạnh tạo nên âm thanh đặc biệt (như gào thét)sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vàocạm bẫy Thác đá - Tiếng thác nước: + “như là oán trách, như là van xin, như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”(so sánh)âm thanh của tiếng thác tạo nên những cung bậc đa dạng của thác nước Sông Đà: lúc thì nỉ non, lúc thì hung hăng phách lối, trịch thượng và ngạo mạn. +“rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn ”(so sánh mới mẻ, độc đáo) tiếng gầm thét dữ dội của sông nước đại ngàn như mở hết âm lượnglấy những cái đối lập(lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông) nhằm tô đậm tiếng thác nước giận dữ ầm ầm va vào bờ đá Đá ngầm : “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, nhổm dậy vồ thuyền, đứng, ngồi, nằm” (nhân hóa)đá thông minh, mưu trí, dàn sẵn trận địa, có tính cách SK: -NT: ngôn ngữ uyên bác, trí tưởng tượng độc đáo, so sánh mới mẻ, phong phú, -ND: con SĐ hiện thân của sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ, chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc cũng là “kẻ thù số một”, là con thủy quái của con người nơi đây tình yêu Tây Bắc của tác giả. b) Trữ tình thơ mộng: được nhà văn khám phá ở nhiều góc dộ b1)Nhìn từ trên cao: Dáng sông: - “ngoằn ngoèo như cái dây thừng” dáng sông uốn lươn, đẹp như tranh vẽ - “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo.”(câu văn so sánh giàu chất họa)dáng sông hiện ra với màu sắc, đường nét mềm mại, dịu dàng như chân dung người thiếu nữ kiều diễm đầy xuân sắc, tinh khôi và duyên dáng. Nước sông thay đổi theo mùa -Mùa xuân”xanh ngọc bích”tác giả khám phá vẻ đẹp của sắc nước qua làn mây mùa xuân sắc trời hòa sắc nước -Mùa thu”lừ lừ chín đỏ như da mặt một ngườibầm đi vì rượu bữa ” màu phù sa Gv: Nguyễn Thị Thảo - 3 - Lưu Văn Liệt Chuyên đề Ngữ văn 12 Thể Kí linh hoạt lái nhanh, khéo léo đưa thuyền đến nơi an toànthuần phục được Sông Đà với đủ mưu ma chước quỷ →tài hoa, trí dũng tuyệt vời SK: -Ngôn ngữ công phu, linh hoạt để khắc họa kì công và chiến tích của con người trong lao động -Ông đò như một viên dũng tướng xông trận, một vị chỉ huy trong cuộc chiến đấu không cân sức với thiên nhiên dữ dội, hiểm độc. Ông vượt thác không chỉ bằng cơ bắp mà cả trí óc nên ông đã chiến thắng một đạo quân hùng tướng mạnh. Đây là chiến thắng vĩ đại giữa một bên là thiên nhiên lớn lao kì vĩ với con người lao động đời thường→cuộc chiếnn không cân sức -Ông nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn; bình tĩnh và hùng dũng ngay cả lúc bị thương. -Nguyên nhân chiến thắng: sự ngoan cường, dũng cảm và nhất là kinh nghiệm sông nước. c)Người lao động bình dị, ung dung sau khi vượt thác Sau cuộc chiến đấu với song đà, ông trở về với cuộc sống của người lao động giản dị, khiêm tốn giữa đời thường: -Không bàn tán về cuộc chiến -Nghỉ tại hang đá, “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ” +”đốt lửa” +”nướng ống cơm lam” +”bàn về cá anh vũ cá dầm xanh”, “về những cái hầm cá hang cá mùa cá” sự giàu có, trù phú về sản vất của sông Đà +”không ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến vừa qua” thử thách thường ngày của con người Tây Bắc phong thái ung dung, lạc quan, sống bình dị, thản nhiên trước cái khắc nghiệt của sông nước”ngày nào cũng chiến đấu, cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác,.không có gì là hồi hợp đáng nhớ” ca ngợi người lao động anh hùng trên sông nước Đà giang khiêm tốn, bình dị, anh hùng. SK: -Ở ông lái đò có sự kết hợp hài hòa nhiều phẩm chất đối lập: anh hùng với nghệ sĩ, bình thường với phi thường -Tìm được nhân vật mới: những con người đáng trân trọng, ngợi ca, không thuộc tầng lớp đài cát”vang bóng một thời” mà là những người lao động bình thường”chất vàng mười của Tây Bắc”. -Quan niệm của nhà văn: người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày. AI Đà ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) 1.Vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương được thể hiện qua thủy trình của Hương giang : a)Sông Hương ở khởi nguồn gắn bó mật thiết với dải Trường Sơn nên có vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính -Là một bản trường ca của rừng già. + « rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn » + »mãnh liệt qua những ghềnh thác » + »cuộn xoáy như cơn lốc » (so sánh, nhịp ngắn, thanh trắc, từ gợi tả...)→dòng chảy SH đa dạng về tiết tấu→hùng tráng và dữ dội→vẻ đẹp nguyên sơ, hùng vĩ của dòng chảy SH ở địa phận thượng nguồn. -Như một cô gái Di-gan »phóng khoáng và man dại, bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do trong sáng « → rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. →sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ của SH ở thượng nguồn được thổi bằng ngọn gió dào dạt nhạy cảm và liên tưởng mới mẻ, độc đáo của HPNT b)SH khi về kinh thành và ngoại vi Thành Phố Huế : Ra khỏi rừng : SH trở thành « người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở », mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ -SH như »người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đấy hoa dại » được người tình mong đợi đến đánh thức Gv: Nguyễn Thị Thảo - 5 - Lưu Văn Liệt
File đính kèm:
chuyen_de_the_ki_ngu_van_lop_12.pdf

