Chuyên đề Phát triển năng lực cho sinh khi học văn bản nghị luận ở chương trình Ngữ văn Lớp 7
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Phát triển năng lực cho sinh khi học văn bản nghị luận ở chương trình Ngữ văn Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Phát triển năng lực cho sinh khi học văn bản nghị luận ở chương trình Ngữ văn Lớp 7
TRƯỜNG THCS QUANG TRUNG TỔ NGỮ VĂN CHUYÊN ĐỀ NGỮ VĂN 7 DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ “PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO SINH KHI HỌC VĂN BẢN NGHỊ LUẬN Ở CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 7” Học kỳ II, năm học 2018 – 2019 (Giáo viên trong tổ nghiên cứu báo cáo chuyên đề) A. PHẦN MỞ ĐẦU Xã hội ngày càng phát triển thì việc hình thành các kỹ năng, năng lực để đáp ứng những yêu cầu phát trển của xã hội càng trở nên quan trọng và cần thiết. Nó trở thành một trong những vấn đề đáng quan tâm của toàn xã hội nói chung và trong hệ thống giáo dục nước nhà nói riêng. Trong những năm gần đây, dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh là chủ trương lớn của Đảng, nhà nước và của Bộ Giáo dục - Đào tạo. Việc thay đổi phương pháp dạy học theo hướng “thầy truyền thụ” bằng phương pháp tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh là một việc làm vô cùng cần thiết. Hiện nay, đất nước ta đang đổi mới để hòa nhập, giáo dục cũng đang tích cực đổi mới theo hướng hòa nhập với giáo dục thế giới. Vì thế, việc giảng dạy các môn học trong nhà trường cũng phải được đổi mới. Đổi mới để có kết quả tốt hơn, cao hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới, một việc quan trọng và vô cùng cấp thiết trước tiên được đặt ra cho đội ngũ giáo viên là phải đổi mới trong soạn giảng và đổi mới về phương pháp dạy học, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới toàn diện mà Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục đã đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học với hình thức kế thừa và phát huy cho phù hợp với hoàn cảnh phát triển của xã hội như: Qua một số chuyên đề dạy học theo chủ đề phát triển năng lực học sinh, chúng tôi nhận thấy rằng, dạy học theo chủ đề có nhiều thuận lợi. Chúng ta biết rằng, môn Ngữ văn là một môn xã hội, được coi là môn học công cụ, môn học hướng đến sự hình thành, phát triển nhân cách, phát triển năng lực của học sinh. Trước hết, đó là năng lực đọc, viết, sử dụng thành thạo tiếng Việt (Tiếng mẹ đẻ), năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin, năng lực cảm thụ thẩm mỹ, năng lực trình bày, tạo lập các kiểu loại văn bản cần thiết trong cuộc sống. Là môn học công cụ nên sau khi học văn bản, học sinh có khả năng liên hệ thực tiễn đời sống khá dễ dàng. Đó là những định hướng để học sinh ứng dụng kiến thức đã được lĩnh hội vào thực tế cuộc sống. Chúng ta thấy rằng: môn Ngữ văn có nội dụng vô cùng phong phú, nội dung môn học trang bị bao gồm thế giới quan và nhân sinh quan, cũng như các vấn đề của đời sống xã hội có tính thực tiễn, gần gũi, bức thiết. Do đó, nội dung đề cập đến một lượng kiến thức dồi dào, thực tiễn và sinh động. Về cơ bản, giáo viên dạy môn Ngữ văn cũng đã từng tiếp cận và thực hiện tương đối thành công rất nhiều các kỹ thuật và phương pháp dạy học tích cực (thảo luận nhóm, mảnh ghép, trực quan, đóng vai nhân vật ), điều đó vô cùng hữu dụng và là tiền đề cho việc sử dụng các kỹ thuật ấy vào việc khai thác các đơn vị kiến thức trong tiết dạy học theo chủ đề, phát triển năng lực học sinh. Giữa các bài học trong chương trình Ngữ văn. (cùng một khối lớp hoặc trong những khối lớp của Bậc THCS) có nhiều bài có mối quan hệ chặt chẽ: Thể loại (tự sự, biểu cảm, nghị luận); nội dung, chủ đề (tình yêu quê hương, đất nước, con người). Chính vì vậy, giáo viên sẽ dễ dàng trong việc lựa chọn chủ đề để xây dựng chủ đề dạy học. Môn Ngữ văn có nội dung vô cùng phong phú, có nguồn tài liệu dồi dào nên rất dễ dàng để học sinh tìm hiểu, tham khảo, giúp cho giáo viên tổ chức, thực hiện tiết dạy học chủ đề có hiệu quả. 2. Khó khăn: Cũng như các môn học khác, khi đối diện với vấn đề dạy học chủ đề cũng gặp những khó khăn nhất định vì đó là cách tiếp cận khá mới đối với cả giáo viên và học sinh. Từ thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự học của học sinh ở môn Ngữ văn chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức. Việc rèn luyện kỹ năng chưa được quan tâm. Hoạt động kiểm tra, đánh giá chưa thực sự khách quan, chính xác (chủ yếu tái hiện kiến thức), chú trọng đánh giá cuối kỳ, chưa chú trọng đánh giá quá trình. Tất cả những điều đó dẫn tới học sinh học còn thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn. Điều đó thể hiện ở những tồn tại sau: Dạy học tích hợp đã được chú trọng, tuy nhiên, dạy học tích hợp vẫn mang tính khiên cưỡng, nội dung tích hợp vào bài học như bảo vệ môi trường, giáo dục kỹ năng sống một cách cứng nhắc. Việc tích hợp nội môn và tích hợp liên môn chưa thực sự hiệu quả. Chính vì vậy chưa giúp học sinh hình thành kiến thức, kỹ năng mới và tất nhiên các năng lực của học sinh chưa được phát triển. Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực còn mang tính hình thức. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức ở các lớp thực hiện chương trình SGK hiện hành nhưng chủ yếu vẫn dựa vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa dẫm, ỉ lại chưa thực sự chủ động mạnh dạn trước tập thể. Mặc dù đã có giáo viên thực hiện thay đổi phương pháp dạy học, thay đổi cách thức tổ chức giờ học nhằm đạt mục tiêu dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh, song kết quả chưa đạt được như mong muốn bởi nhiều nguyên nhân. *Về phía giáo viên: + Vấn đề dạy học chủ đề: 3 học sinh và nội dung tích hợp với những vấn đề gắn liền với thực tiễn”. Việc học của học sinh thực sự có giá trị vì nó kết nối với thực tế và rèn luyện được nhiều kỹ năng hoạt động và kỹ năng sống. b. Tại sao phải thiết kế bài học và dạy học theo chủ đề ? Việc xây dựng bài học và dạy học theo chủ đề là điều kiện quan trọng để góp phần đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học. Bởi vì, để hình thành được năng lực và phẩm chất người học, mỗi giờ học không chỉ hướng tới mục tiêu dạy cho học sinh hiểu biết “kiến thức nào” mà còn phải dạy cho học sinh lí giải được “kiến thức ấy dùng để làm gì?”, “cần phải làm như thế nào để tiếp thu được kiến thức ấy ?”Nghĩa là ngoài việc hiểu được nội dung bài học, học sinh cần biết phát hiện, tư duy trước một vấn đề, cần hình thành được thao tác tìm kiếm thông tin, huy động tri thức để xử lý những tình huống tương tự. Một bài học độc lập sẽ khó khăn hơn cho việc hình thành và phát triển năng lực học sinh theo hướng ấy. Khi dạy học theo chủ đề, giáo viên dễ tạo cơ hội cho học sinh sử dụng những kiến thức, kỹ năng đã biết ở bài học trước để phát hiện và giải quyết những tình huống có vấn đề ở bài học sau rồi có cái nhìn khái quát về các đơn vị kiến thức theo chủ đề. Việc phát hiện và giải quyết những tình huống mới phát sinh trong chủ đề dạy học là một trong những cơ sở quan trọng để phát triển được năng lực học sinh. c. Cần xác định rõ các năng lực cần phát triển cho học sinh. Trước hết chúng ta cần hiểu năng lực là gì? Năng lực là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức các kiến thức, kỹ năng và thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Năng lực gồm có: năng lực chung và năng lực đặc thù. Năng lực chung là năng lực cơ bản, cần thiết mà bất cứ người nào cũng cần phải có để sống và học tập, làm việc. Năng lực đặc thù thể hiện nhiều lĩnh vực khác nhau như: năng lực đặc thù bộ môn học là năng lực được hình thành và phát triển do đặc điểm của môn học đó tạo nên. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực, người ta vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học, có thể kết hợp các phương pháp dạy học truyền thống với các phương pháp dạy học hiện đại. Cái chính là cách sắp xếp, tổ chức việc học tập sao cho người học có cơ hội phát triển tư duy, có cơ hội bộc lộ suy nghĩ, hiểu biết của mình về vấn đề được đặt ra. Vì thế yêu cầu người học phải làm việc tích cực và người dạy phải có năng lực tổ chức, thiết kế bài dạy công phu, khoa học, tỉ mỉ hơn. Nếu so sánh với các quan điểm dạy học trước đây, việc dạy học phát triển năng lực sẽ làm cho việc dạy và việc học được tiếp cận gần hơn, sát hơn với mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách con người. Trong quan niệm dạy học mới, tổ chức môt giờ học tốt là một giờ học phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của cả người dạy và người học, nhằm nâng cao trí thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền thống như: bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh. Giờ học đổi mới phương pháp dạy học còn có những yêu cầu mới như: được thực hiên thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập cho hoc sinh, chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin: được thực hiện theo tuyên tắc tương tác nhiều chiều giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh 5 + Phát huy tối đa các năng lực trong giờ học cho học sinh. + Tạo không khí hào hứng, thoải mái, tự nhiên cho học sinh trong giờ học. + Phát triển năng lực, phẩm chất học sinh thông qua phương pháp thảo luận nhóm, tổ chức trò chơi, khả năng phản biện. 2. Các bước thực hiện một chủ đề trong dạy học theo chủ đề. Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học . Vấn đề cần giải quyết có thể là tìm kiếm, xây dựng kiến thức mới; kiểm nghiệm, ứng dụng kiến thức. Căn cứ vào nội dung chương trình, sách giáo khoa của môn học và những ứng dụng kỹ thuật, hiện tượng, quá trình trong thực tiễn, tổ/ nhóm chuyên môn xác định các nội dung kiến thức liên quan với nhau được thể hiện ở một số bài, tiết hiện hành. Từ đó xây dựng thành một vấn đề chung để tạo thành một chuyên đề dạy học. Trường hợp có những nội dung kiến thức liên quan đến nhiều môn học, có thể lựa chọn nội dung để thống nhất xây dựng các chủ đề tích hợp, liên môn. Bước 2: Xây dựng nội dung chủ đề bài học. Căn cứ vào tiến trình sư phạm của phương pháp dạy học tích cực được sử dụng để tổ chức hoạt động học cho học sinh, từ tình huống xuất phát đã xây dựng, dự kiến các nhiệm vụ học tập cụ thể tiếp theo tương ứng với các hoạt động học của học sinh. Từ đó xác định các nội dung cần thiết để cấu thành chủ đề bài học. Lựa chọn các nội dung của chủ đề từ các bài, tiết trong sách giáo khoa. Thông thường, các bài học thuộc cùng một chủ đề trong sách giáo khoa hiện hành được đặt gần nhau, trong cùng một chương, một phần Về thực chất, mỗi bài học này tương ứng với một loại hoạt động học theo tiến trình sư phạm của phương pháp dạy học tích cực. Tên chủ đề bao quát các đơn vị kiến thức muốn tích hợp, kết cấu nội dung chủ đề phải hợp lý, các đơn vị kiến thức trong chủ đề phải theo trình tự nhận thức từ dễ đến khó, đơn giản đến phức tạp hoặc nhóm thành các chủ đề nhỏ phù hợp với nhiệm vụ học tập được giao cho học sinh. Chủ đề xây dựng vừa đúng, đủ, phù hợp và bảo đảm các yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng trong chương trình chuẩn, cũng như các năng lực cần xây dựng, kiểm tra. Khi xây dựng chủ đề phải đảm bảo tính hệ thống, tính logic của chương trình tránh đảo lộn nội dung hay rối loạn tư duy học sinh, phá vỡ hệ thống kiến thức. Việc xây dựng chủ đề phải khớp với giáo án và tiến trình dạy học trên lớp, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, giáo viên, học sinh, cơ sở vật chất, thiết bị Bước 3: Xác định mục tiêu bài học Xác định chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, từ đó xác định các năng lực và phẩm chất có thể hình thành cho học sinh trong chuyên đề sẽ xây dựng. - Mục kiến thức: Liệt kê các đơn vị kiến thức (căn cứ vào chuẩn kiến thức của của chương trình hiện hành) - Mục kĩ năng: Xác định những kĩ năng cần hình thành và rèn luyện dựa trên đơn vị kiến thức. Lưu ý: Sử dụng các động từ lượng hóa được để có thể đánh giá theo 4 mức (thang đánh giá của Nicko): nhận biết (nêu lên, trình bày, chỉ ra), thông hiểu (lý giải, cắt nghĩa, tóm tắt, xác định, phân biệt, phân loại, khái quát), vận dụng (so sánh, phân tích, nhận xét, đánh giá, liên hệ). Bước 4: Xác định và mô tả mức độ yêu cầu (nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao) của mỗi loại câu hỏi/ bài tập. 7
File đính kèm:
chuyen_de_phat_trien_nang_luc_cho_sinh_khi_hoc_van_ban_nghi.pdf

