Chuyên đề Học sinh cấp trung học khó khăn về đọc, viết và tính toán

doc 37 trang thanh nguyễn 29/10/2025 40
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Học sinh cấp trung học khó khăn về đọc, viết và tính toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Học sinh cấp trung học khó khăn về đọc, viết và tính toán

Chuyên đề Học sinh cấp trung học khó khăn về đọc, viết và tính toán
 Bài 2. HỌC SINH CẤP TRUNG HỌC 
 KHÓ KHĂN VỀ ĐỌC, VIẾT VÀ TÍNH TOÁN 
Người Báo cáo 
Đoàn Mỹ Huệ
 1. Mục tiêu
- Kiến thức: Diễn đạt được các tiêu chí nhận dạng và một số đặc điểm nổi bật của 
 HS KKVH.
- Kĩ năng: 
 + Phát hiện và sử dụng được phiếu sàng lọc để nhận dạng được HS KKVH.
 + Quan sát hoạt động xác định được khả năng và nhu cầu học tập của HS 
 KTTT.
- Thái độ: Tin tưởng vào khả năng và sự phát triển của HS KTTT.
2. Nội dung
 2. 1. Khái niệm khó khăn về học 
 - Định nghĩa
 - Phân biệt thuật ngữ
 2. 2. Nguyên nhân gây khó khăn về học
 2. 3. Phân loại khó khăn về học
 - Khó đọc
 - Khó viết
 - Khó tính toán
 2. 4. Phát hiện học sinh khó khăn về học
 - Phiếu sàng lọc
 - Sử dụng phiếu sang lọc
 2. 5. Đặc điểm học sinh khó khăn về học 
 - Nhận thức Sổ tay chẩn đoán và thống kê những rối nhiễu tâm thần IV (DSM-IV) (29) 
dùng thuật ngữ Rối loạn học tập (Learning Disorders) và Rối loạn kỹ năng học 
đường (Academic Skills Disorders). Hai thuật ngữ này hiện nay được nhiều nhà 
tâm lý và bác sỹ tâm thần sử dụng. Tuy nhiên, trong bản dự thảo cuối cùng DSM – 
V, dự kiến công bố vào tháng 5 năm 2013 lại sử dụng thuật ngữ khuyết tật học tập 
(learning disabilities) thay cho “rối loạn học tập” và đề cập đến những khiếm 
khuyết về đọc và toán học trong loại khuyết tật đó (40).
 Như vậy, ngoài thuật ngữ Rối loạn phát triển các kỹ năng học tập cụ thể và 
Rối loạn học tập có hai thuật ngữ khác được sử dụng rộng rãi trên thế giới là: 
Khuyết tật học tập (Learning disabilities) và Khó khăn về học (Learning 
difficulties). Tuy nhiên, nội hàm của các khái niệm này được sử dụng ở những 
nước khác nhau nên có những điểm khác biệt.
 Ở Mỹ, vào năm 1968 NACHC (The National Advisory Committee on 
Handicapped Children) sử dụng thuật ngữ Trẻ khuyết tật học tập đặc thù (children 
with special learning disabilities) để chỉ những trẻ em có biểu hiện rối loạn trong 
một hay nhiều quy trình tâm lý cơ bản như quá trình nhận biết, quá trình sử dụng 
ngôn ngữ nói và viết. Quá trình đó được biểu hiện ở những rối loạn nghe, nghĩ, 
nói, đọc, viết, đánh vần hay làm toán. Trẻ bị mắc những chứng đó được gọi là thiểu 
năng trí giác, tổn thương não, có rối loạn nhỏ trong chức năng của não, khó đọc, 
không có khả năng sử dụng ngôn ngữ. Những chứng tật này không bao gồm các 
nguyên nhân khiếm thính, khiếm thị hay rối nhiễu cảm xúc, hoặc do môi trường 
học tập không phù hợp (45). Khái niệm này ngay khi ra đời được nhiều nhà khoa 
học ủng hộ và sau đó được sử dụng rộng rãi. Khái niệm này đã được ghi lại trong 
Đạo luật công cộng 94-142 (42).
 Đạo luật đăng ký liên bang 1977/IDEA, đưa ra những quy định trong việc 
xác định trẻ em LD theo điều luật 94-142. Những điều luật này khiến cho định Ở Đức các nhà khoa học sử dụng thuật ngữ Learning difficulties. Nội dung 
thuật ngữ đề cập đến những trẻ bị hạn chế về thành tích học tập và suy giảm chức 
năng nhận thức (IQ từ 65 – 85) (30).
 Ở I-ta-li-a không có định nghĩa chính thức. Thuật ngữ “Khó học” hay 
“Khuyết tật học tập” được dùng để chỉ các vấn đề về đọc, làm toán, ngôn ngữ, vận 
động, miêu tả đặc điểm bằng các thuật ngữ y tế. 
 Hiện nay, Anh là nước duy nhất trên thế giới sử dụng thuật ngữ Khuyết tật 
học tập thay cho thuật ngữ Khuyết tật tinh thần (mental handicap) dùng để chỉ các 
cá nhân có: khiếm khuyết về trí tuệ, suy giảm khả năng tìm hiểu thông tin , -Tật 
xuất hiện trước tuổi trưởng thành, và ảnh hưởng lâu dài đến phát triển của cá nhân. 
Trong khi, phần lớn các nước trên thế giới đã thống nhất sử dụng thuật ngữ Khuyết 
tật trí tuệ. Trong quá trình thụ hưởng các dịch vụ, nhiều người khuyết tật học tập ở 
Anh không thích thuật ngữ này và muốn thay đổi cho phù hợp với xu thế chung 
của thế giới (31). Thực tế, trong các văn bản hành chính ở lĩnh vực y tế và phúc lợi 
xã hội của nước Anh hai thuật ngữ này có thể hoán đổi cho nhau. Thuật ngữ “Khó 
khăn về học” lại bao gồm cả trẻ khuyết tật trí tuệ nhẹ (IQ = 55 – 70) và những 
người có khó khăn học tập cục bộ (chứng khó đọc, khó toán). 
Việt Nam
 Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu trẻ có dấu hiệu khó khăn trong học tập 
được bắt đầu từ đầu những năm 80 của thế kỷ thứ 20. Trung tâm Nghiên cứu Tâm 
sinh lý trẻ em (gọi tắt là N - T) sử dụng thuật ngữ Học khó để chỉ trẻ có biểu hiện 
khó khăn về đọc, khó khăn về viết, khả năng chú ý kém, không hứng thú học tập 
và kết quả học tập yếu [1]. Năm 1996, PGS Trần Trọng Thuỷ và các cộng sự của 
mình trong báo cáo đề tài cấp Bộ, “Dạy học chỉnh trị cho trẻ khó khăn về học” sử 
dụng thuật ngữ trẻ Khó khăn về học là những trẻ chậm phát triển trí tuệ, những trẻ 
có chỉ số IQ nằm trong khoảng từ 70 – 90 và gặp nhiều khó khăn trong hoạt động 
học tập (25). Giai đoạn những năm 90 của thế kỷ 20 hàng loạt các nghiên cứu của Năm 2008, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Giáo dục học của Nguyễn Thị 
Kim Hoa, “Xây dựng quy trình đánh giá đầu vào học sinh khó khăn về học cấp 
trung học cơ sở” (11) tác giả quan niệm trẻ khó khăn về học là trẻ khuyết tật trí 
tuệ hoặc trẻ có khó khăn đặc biệt trong học tập các môn học trong nhà trường phổ 
thông. Trẻ khó có thể tham gia học chương trình quốc gia nếu không có sự điều 
chỉnh các hoạt động dạy học. Năm 2010, Dự án Giáo dục Tiểu học cho trẻ có hoàn 
cảnh khó khăn (PEDC), Bộ GD&ĐT đã xuất bản cuốn “Dạy học hòa nhập trẻ khó 
khăn trong học tập” (21) đều sử dụng thuật ngữ Trẻ khó khăn về học để chỉ những 
trẻ học kém hơn các bạn cùng độ tuổi từ một đến vài năm. Nguyên nhân của học 
kém có thể do khuyết tật; môi trường sống không thuận lợi; hạn chế về sức khỏe 
dẫn đến trẻ không theo kịp chương trình phổ thông. Trong tài liệu còn đề cập đến 
đối tượng học sinh Khuyết tật học tập (children with learning disabilities). Tài liệu 
có đoạn viết “Đây là một thuật ngữ mới chỉ đối tượng học sinh không thuộc đối 
tượng trên, tuy nhiên trẻ vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong học tập và kết quả học 
tập rất chênh lệch với khả năng hiện có”. Thuật ngữ Khuyết tật học tập được 
Nguyễn Thị Kim Hoa tiếp tục phân tích và mở rộng hơn trong Tạp chí Khoa học 
giáo dục, Số 5, tháng 7/2010 - Một số biện pháp hỗ trợ trẻ em khuyết tật học tập 
học hòa nhập ở tiểu học và Nguyễn Thị Cẩm Hường, EDA Yusuke, Nguyễn Thị 
Hoàng Yến - Sử dụng trong nghiên cứu về đặc điểm phân phối lỗi chữ viết của học 
sinh tiểu học (14).
 Có thể nói, hiện nay đang tồn tại những cách gọi khác nhau về đối tượng trẻ 
có khó khăn về đọc, viết và tính toán mà nguyên nhân không phải do các khuyết tật 
khác hay bất lợi về điều kiện chăm sóc, giáo dục, ngôn ngữ nơi trẻ sinh sống, Để 
đi đến một thuật ngữ thống nhất, đảm bảo các tiêu chí khoa học, nhân văn, phù hợp 
với xu thế quốc tế, dễ sử dụng cần có sự nghiên cứu sâu về vấn đề này, sự đồng 
thuận của các nhà khoa học, ủng hộ của các tổ chức và cá nhân. Tài liệu này thống 
nhất sử dụng thuật ngữ learning disabilities, chọn cách chuyển dịch là khó khăn có kết quả học tập kém, khi xuất hiện đủ ba đặc có biểu hiện:
không đạt chuẩn một điểm sau: Chênh lệch giữa trí 
hoặc một số của môn Chỉ số trí tuệ dưới thông minh thực tế (kỹ 
học, lớp học, cấp học. mức trung bình (IQ năng sống) và trí thông 
 Kết quả học tập ≤70) (kết quả đánh giá minh học tập (kết quả 
kém của HS có thể do bằng thang đo chỉ số trí học tập tại trường). 
nhiều nguyên nhân khác tuệ đã được chuẩn hóa). Gặp khó khăn khi 
nhau như: HS bị khuyết Hạn chế ít nhất đọc, viết tiếng Việt, 
tật (KTTT, khiếm thính, 2/10 nhóm hành vi thích hoặc thực hiện các phép 
khiếm thị, khuyết tật ứng xã hội: giao tiếp, tự tính toán. Kết quả học 
vận động, khuyết tật chăm sóc, sống tại gia tập về môn Toán hoặc 
ngôn ngữ; hoặc khuyết đình, các kĩ năng xã môn Tiếng Việt (Ngữ 
tật học tập; HS nghèo hội/liên cá nhân, sử Văn) xếp loại kém (thấp 
đói, thiếu nước sạch dụng các phương tiện hơn hẳn so với các bạn 
không có điều kiện để giao thông, tự định cùng lớp từ một đến vài 
học tập; HS ốm yếu, hướng, kĩ năng học năm).
nghỉ học lâu ngày không đường, làm việc, giải trí, Nguyên nhân HS 
theo kịp các bạn; HS sức khỏe và an toàn. học kém không phải do 
dân tộc gặp khó khăn KTTT xuất hiện HS đó lười biếng; bị các 
khi tiếp nhận và diễn đạt trước 18 tuổi. khuyết tật khác như 
ngôn ngữ phổ thông.. Như vậy, mọi học khiếm thính; khiếm thị, 
 Do đó, HS KH sinh KTTT đều hạn chế khuyết tật trí tuệ, khuyết 
không nhất thiết có trí về khả năng nhận thức tật vận động; mắc các 
tuệ dưới mức trung và kỹ năng sống. rối loạn cảm xúc hoặc ít 
bình, giao tiếp kém và Có thể nhận ra HS có cơ hội học tập
hạn chế về kĩ năng sống. KTTT dựa vào vẻ bề Khó có thể nhận ra Về hai khái niệm KTTT và KKVH, có một số sự khác nhau cơ bản đó là HS 
KTTT hạn chế tất cả các lĩnh vực (ngôn ngữ, tư duy, trí nhớ, kĩ năng giáo tiếp, kĩ 
năng tự phục vụ..). Nhìn hình dáng bên ngoài của HS KTTT người ta có thể dễ 
dàng được nhận ra bởi nét mặt khờ dại, hành vi bất thường. Trong khi đó, thể chất 
của HS KKVH phát triển bình thường về thể chất và HS này chỉ bị hạn chế về một 
hay nhiều lĩnh lực đọc, viết hoặc tính toán trong học tập. 
 Sau đây là một ví dụ minh họa về học sinh A :
 Một HS A, học Trường THCS B – TP Đà Nẵng luôn đạt danh hiệu học sinh 
khá từ lớp 1 đến lớp 6. Hè năm lớp em bị tai nạn giao thông. Sau khi chụp cắt lớp 
và tiến hành hàng loạt xét nghiệm BS kết luận em A bị chấn thương sọ não. Sau 2 
tháng điều trị tại BV Đà Nẵng, sức khỏe học sinh dần hồi phục. Em ăn ngủ, bình 
thường. Nhưng năm học lớp 7, em học rất kém môn toán, còn các môn học khác 
tương đối tốt. Sau đây là kết quả học tập một số môn học của em ở học kỳ 1 lớp 7.
 ĐỒ THỊ BIỂU DIỄN KQHT CỦA EM A
 10 9.1
 9 8
 7.5 7.3
 8 7 6.7 7
 7 6.5
 6
 5 4.5 Điểm tổng kết HKI
 4 3.4
 3
 2
 1
 0
 Toán Ngữ Vật lý Sinh Lịch Địa lý Tin Công Thể Ngoại
 văn học sử học nghệ dục ngữ
 MÔN HỌC
 Mặc dù nhận được sự hỗ trợ thường xuyên của GV, gia đình và bạn bè nhưng 
kết quả học tập của em không được cải thiện. Thầy, cô, bố mẹ và bản thân em 

File đính kèm:

  • docchuyen_de_hoc_sinh_cap_trung_hoc_kho_khan_ve_doc_viet_va_tin.doc