Chuyên đề Giảng dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Giảng dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Giảng dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7
________________________________________________________________________
CHUYÊN ĐỀ
GIẢNG DẠY CA DAO- DÂN CA
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 7
I. MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ
Trong việc giảng dạy phân môn văn hiện nay không ít giáo viên loay hoay lúng túng
trước tác phẩm nghệ thuật và tài liệu hướng dẫn . Không ít những giờ dạy học tác phẩm
văn chương đã diễn ra khá bài bản, giáo viên đã đi hết một quy trình (theo trình tự các đề
mục) mà ta chưa yên tâm chút nào, hình như có một cái gì đó sâu thẳm lớn lao ở tác
phẩm do mở nhầm cửa người dạy, người học đã chưa đi đến được cái đích cuối cùng.
Nguyên nhân chính là chưa xác định, chưa tìm hiểu kĩ đặc trưng thể loại của tác phẩm
với tính chất nội dung của nó là không "chính danh" và đã không "chính danh" thì việc
phân tích có sắc sảo đến đâu cũng chỉ là võ đoán. Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài này
với mục đích là cùng tìm hiểu về đặc trưng của ca dao- dân ca để từ đó định hướng
phương pháp giảng dạy ca dao- dân ca nhằm cá thể hoá việc học, đưa học sinh trở thành
nhân tố cá nhân tích cực, chủ động, tự giác tham gia vào việc tìm hiểu những văn bản ca
dao- dân ca, khám phá chân lí và giá trị nghệ thuật
II- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CHUYấN ĐỀ
- Tìm hiểu bằng cách đọc, nghiên cứu tài liệu về phương pháp giảng dạy tác phẩm văn
học theo đặc trưng thể loại. Các bài viết có tính chất khoa học và đã thành giáo trình
giảng dạy.
- Tham khảo ý kiến cũng như phương pháp giảng dạy các tác phẩm thuộc thể loại trữ
tình của đồng nghiệp thông qua các buổi họp chuyên đề, dự giờ thăm lớp.
- Lấy thực nghiệm việc giảng dạy văn học ở trên lớp những bài ca dao- dân ca đặc biệt
là những bài giàu giá trị nghệ thuật và đánh giá kết quả nhận thức của học sinh, để từ đó
tìm hiểu nguyên nhân rút ra hướng rèn luyện học sinh.
III.KHI GIẢNG DẠY CA DAO- DÂN CA CẦN NẮM VỮNG
1. Khỏi niệm ca dao –dõn ca
Theo SGK Ngữ văn 7 tập 1 t đã nêu khái niệm về ca dao- dân ca như sau:
- Ca dao- dân ca là tên gọi chung của các thể loại trữ tình dân gian kết hợp lời và
nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người. ________________________________________________________________________
4. Đặc trưng của ca dao-dân ca
- Vì là phần lời của những câu hát dân gian nên ca dao thiên về tình cảm và biểu hiện
lòng người, phản ánh tâm tư, tình cảm, thế giới tâm hồn của con người. Thực tại khách
quan được phản ánh thông qua tâm trạng con người, nó thể hiện vẻ đẹp trang trọng ngay
trong đời thường con người.
- Là "tấm gương của tâm hồn dân tộc" là "một trong những dòng chính của thơ ca trữ
tình" ( F. Hê ghen).
- Nói đến thi pháp ca dao, trước hết phải nói đến phương tiện chủ yếu của ca dao, tức là
ngôn ngữ. Bởi vì ca dao là phần lời của dân ca, cái yếu tố nhạc điệu, động tác có vai trò
rất quan trọng trong dân ca, còn ở phần lời thơ thì vai trò chủ yếu thuộc về ngôn ngữ, các
yếu tố khác đều trở thành thứ yếu. Chính vì vậy mà ca dao có khả năng sống độc lập
ngoài ca hát ( tức là ngoài sự diễn xướng tổng hợp của dân ca) và trở thành nguồn thơ trữ
tình dân gian truyền thống lâu đời và phong phú nhất của dân tộc.
- Ngôn ngữ trong ca dao đậm đà màu sắc địa phương, giản dị, chân thực, hồn nhiên, gần
gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Ví dụ như bài ca dao:
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát menh mông".
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai
( Trong đó ni= này; tê= kia: tiếng địa phươpng miền trung).
- Có nhiều bài ca dao được lan truyền nhanh chóng trở thành tiếng nói riêng của nhân
nhiều địa phương khác nhau nhờ sự thay đổi địa danh là chủ yếu. Ví dụ:
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Ai vô xứ Huế thì vô
- Ca dao là phần lời của dân ca, do đó các thể thơ trong ca dao cũng sinh ra từ dân ca.
Các thể thơ trong ca dao cũng được dùng trong các loại văn vần dân gian khác (như tục
ngữ, câu đố, vè ). Có thể chia các thể thơ trong ca dao thành bốn loại chính là:
- Các thể vãn
- Thể lục bát ________________________________________________________________________
- Phương thức trần thuật (hay kể chuyện trữ tình, khác với trần thuật trong các loại tự
sự).
Ví dụ: Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ri ríu rít bò ra lấy phần.
Chào mào thì đánh trống quân,
Chim chích cởi trần, vác mõ đi giao."
- Phương thức miêu tả (miêu tả theo cảm hứng trữ tình, khác với miêu tả khách quan
trong các thể loại tự sự).
Ví dụ: Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.
Ai vô xứ Huế thì vô
- Ngoài ra còn có cả ba phương thức kép là (trần thuật kết hợp với đối thọai; trần thuật
kết hợp với miêu tả; kết hợp cả ba phương thức)
- Do nhu cầu truyên miệng và nhu cầu ứng tác, nhân dân thường sử dụng những khuân,
dạng có sẵn, tạo nên những đơn vị tác phẩm hoặc dị bản hao hao như nhau.
Ví dụ: "Thân em như" ("hạt mưa sa", "hạt mưa rào", "tấm lụa đào", "trái bần trôi"
)
- Thời gian và không gian trong ca dao
+ Thời gian:
- Thời gian trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách quan vừa là thời gian của tưởng
tượng, hư cấu mang tính chất chủ quan của tác giả.
- Ca dao có rất nhiều câu mở đầu bằng hai tiếng "chiều chiều": "Chiều chiều xách giỏ
hái rau", "Chiều chiều ra đứng bờ sông","Chiều chiều lại nhớ chiều chiều" "Chiều
chiều" có nghĩa là chiều nào cũng vậy, sự việc diễn ra lặp đi lặp lại.
- Ngoài ra thời gian trong ca dao còn sử dụng hàng loạt những trạng ngữ (hay cụm từ)
chỉ thời gian như : "bây giờ"; "tối qua"; "đêm qua" thì ai cũng hiểu là người nói đang
ở thời điểm hiện tại để nhớ lại và nhắc lại chuyện vừa xảy ra chưa lâu. Nhìn chung thời
gian trong ca dao trữ tình là thời gian nghệ thuật mang tính tượng trưng, phiếm chỉ (hay ________________________________________________________________________
Anh em hoà thuận , hai thân vui vầy.
- Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông.
- Còn ở ẩn dụ (so sánh ngầm) thì không những không có quan hệ từ so sánh mà đối
tượng so sánh cũng được ẩn đi, chỉ còn một vế là phương tiện so sánh (ở đây đối tượng
và phương tiện so sánh hoà nhập làm một). Do vậy mà hình thức ẩn dụ hàm súc hơn tỉ
dụ.
Ví dụ bài ca dao sau là tập hợp bốn hình ảnh ẩn dụ, mỗi hình ảnh ám chỉ một cảnh ngộ
đáng thương của người lao động:
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến tí ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
Đặc biệt ẩn dụ gắn rất chặt với nghệ thuật nhân hoá, dùng thế giới loài vật để nói thế
giới loài người.
Ví dụ bài ca dao dưới đây mỗi con vật tượng trưng cho một loại người, hạng người
trong xã hội xưa:
Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ri ríu rít bò ra lấy phần.
Chào mào thì đánh trống quân,
Chim chích cơỉ trần vác mõ đi giao.
- Biện pháp nghệ thuật đối xứng (đối ý, đối từ):
Ví dụ: Số cô chẳng giầu thì nghèo
Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà. ________________________________________________________________________
Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, được nằm trên chiếc nôi tre chúng ta đã được nghe
tiếng ru ầu ơ của bà, của mẹ bằng những câu ca dao - dân ca, nó như dòng suối ngọt
ngào, vỗ về, an ủi tâm hồn mỗi người. khúc hát tâm tình của quê hương đã thấm sâu vào
trái tim mỗi người dân Việt Nam mà năm tháng có qua đi cũng không thể phai mờ.
Hỏi: Vậy bây giờ em nào có thể đọc cho cả lớp nghe một vài câu ca dao mà em thuộc
hoặc đã được học ở tiểu học.
- Sau đó giáo viên có thể tiến hành hoạt động liên môn khi sử dụng các làn điệu dân ca
để gây tình huống.
Hỏi: Trong môn Âm nhạc lớp 6 và lớp 7 các em đã được học một số làn điệu dân ca.
Vậy một em hãy nêu rõ tên làn điệu dân ca đó. Nếu có thể em hát một vài câu cho các
bạn nghe. (Đó là bài "Đi cấy" dân ca Thanh Hoá - lớp 6 và bài "Lí cây đa" dân ca quan
họ Bắc Ninh - lớp 7).
Chú ý: Hoạt động liên môn phải hết sức thận trọng, đúng thời điểm với một liều lượng
cho phép.
2. Bài mới
a, Đọc - chú thích
* Đọc
Về phương pháp dạy tác phẩm trữ tình nói chung và ca dao nói riêng việc đọc là khâu
khá quan trọng: phải đọc cho "vang nhạc sáng hình". Tác phẩm "chỉ được bắt đầu mở ra
cho bạn đọc khi nó vang lên trong tâm hồn như một sự độc thoại bên trong"
(Marantxman). Vì vậy ở thể loại trữ tình dân gian là ca dao phương pháp "đọc sáng
tạo", và biện pháp "đọc diễn cảm" có một vị trí đặc biệt quan trọng gần như chủ công.
Đối với ca dao giáo viên nên cho học sinh đọc được từ mức thấp nhất cho đến mức cao.
- Mức thấp nhất là đọc đúng, tròn vành, rõ chữ, đúng chính âm, chính tả.
- Mức cao hơn là đọc diễn cảm, đọc diễn tả cảm xúc.
- Mức cao nhất của đọc là đọc nghệ thuật (đọc hay). Đọc diễn cảm phải vươn tới tiệm
cận với đọc nghệ thuật. Nhưng trong giờ dạy ca dao - dân ca thì đọc nghệ thuật không
bao giờ thay thế cho đọc diễn cảm. Nếu có sử dụng đọc nghệ thuật (ngâm thơ, hát ru )
chỉ với một liều lượng cho phép.File đính kèm:
chuyen_de_giang_day_ca_dao_dan_ca_trong_chuong_trinh_ngu_van.doc

