Chuyên đề Dạy học văn bản truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 11 theo định hướng phát triển năng lực học sinh
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Dạy học văn bản truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 11 theo định hướng phát triển năng lực học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Dạy học văn bản truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 11 theo định hướng phát triển năng lực học sinh
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ DẠY HỌC VĂN BẢN TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH A. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHUYÊN ĐỀ I. Cơ sở lí luận. Ở thời nào cũng vậy, muốn đất nước phát triển thì phải quan tâm đầu tư phát triển giáo dục bởi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Điều đó đòi hỏi ngành giáo dục phải không ngừng đổi mới, người thầy phải không ngừng sáng tạo trong việc truyền thụ tri thức cho học sinh. Đổi mới trong dạy học là cách dạy hướng đến học sinh, phát huy được năng lực của học sinh. Trong mấy năm gần đây, việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông đã có nhiều chuyển biến; thể hiện rõ nhất là yêu cầu chuyển từ dạy học nội dung sang dạy học phát triển năng lực. Vẫn là những nội dung dạy học cũ, vẫn là các tác phẩm văn học trong sách giáo khoa hiện hành, nhưng cần hướng dẫn học sinh đọc hiểu, phân tích và đánh giá theo cách thức mới. Từ việc thầy cô chủ yếu giảng văn, nói cho học sinh nghe cái hay, cái đẹp của tác phẩm theo nhận thức và cảm thụ của mình sang tổ chức, hướng dẫn cho học sinh biết cách tiếp nhận, tự tìm hiểu cái hay, cái đẹp của tác phẩm bằng những hiểu biết và cảm nhận của các em. Truyện hiện đại Việt Nam – lớp 11 là một phần quan trọng của chương trình Ngữ văn 11 với những truyện ngắn chọn lọc nổi tiếng nhất trong đời văn của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng đồng thời cũng là phần kiến thức trọng tâm trong các kì thi. Tuy nhiên, do thời gian quy định trên lớp có hạn, người dạy chưa chú trọng dạy kĩ năng tự học, học trò còn thụ động, chưa dành thời gian cần thiết cho việc tự học nên hiệu quả của việc học tập chưa cao. Xuất phát từ yêu cầu dạy học theo hướng phát triển năng lực và thực trạng trên tôi chọn báo cáo chuyên đề “Dạy học văn bản truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 11 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” với mong muốn cùng chị em đồng nghiệp chia sẻ phương pháp, hình thức dạy học phù hợp nhằm phát triển được các năng lực của học sinh. II. Cơ sở thực tiễn. 1. Thuận lợi Đồng thời giúp học sinh phát triển các năng lực như: Năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực thẩm mỹ, hợp tác, công nghệ thông tin và truyền thông; năng lực tái hiện và vận dụng kiến thức, năng lực đọc-hiểu, giải mã văn bản; năng lực sáng tạo, tạo lập văn bản; năng lực vận dụng kiến thức văn học vào cuộc sống. IV. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu Chuyên đề tập trung vào vấn đề đọc hiểu văn bản truyện hiện đại Việt Nam – lớp 11 theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh. V. Phương pháp nghiên cứu Thu thập thông tin từ các nguồn khác nhau (SGK, SGV, tài liệu chuẩn kiến thức, kĩ năng, tài liệu tham khảo trong các công trình nghiên cứu và trên mạng internet. B. NỘI DUNG CỦA CHUYÊN ĐỀ. 1. Giáo viên xác định mục tiêu bài học, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài từ đó hình thành động cơ, hứng thú học tập cho học sinh Bước 1: Giáo viên xác định mục tiêu chung của bài học * Về kiến thức: Hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm hoặc trích đoạn, sự đa dạng của nội dung và phong cách. Các cảm hứng sáng tác lãng mạn, hiện thực, trào phúng; ý nghĩa nhân văn; nghệ thuật tả cảnh, tả người. * Về kĩ năng: - Vận dụng những tri thức về tác giả, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm để đọc hiểu văn bản. - Nhận diện đề tài, chủ đề, cảm hứng chủ đạo của tác giả thể hiện trong tác phẩm. - Biết cách đọc - hiểu một tác phẩm hoặc một đoạn trích của truyện hiện đại theo đặc trưng thể loại. - Tóm tắt và nắm bắt được cốt truyện, phân tích ngoại hình và diễn biến nội tâm nhân vật, các mối quan hệ của nhân vật trong truyện. - Vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã học để đọc những truyện hiện đại khác của Việt Nam. Ngoài đọc văn bản học sinh cũng nên có kỹ năng chọn lọc, sử dụng kiến thức cũ để học kiến thức mới. Tốt nhất là vừa đọc vừa ghi chép, lưu lại tri thức, những ý tưởng hay và khi sử dụng giúp ta khái quát vấn đề nhanh và nhớ lâu. * Học sinh phải soạn bài theo câu hỏi hướng dẫn học bài trong SGK hoặc theo hướng dẫn của giáo viên. Tác dụng của biện pháp này là giúp học sinh chủ động tìm hiểu và chiếm lĩnh kiến thức. Học sinh biết cách phát hiện và giải quyết vần đề, biết cách thu thập và xử lý thông tin, biết cách hoàn thiện sản phẩm khoa học ban đầu. 2. Biên soạn các câu hỏi/ bài tập cụ thể theo mức độ yêu cầu - Xây dựng hệ thống câu hỏi tìm hiểu đặc trưng của thể loại truyện hiện đại, đặc điểm cơ bản của truyện hiện đại Việt Nam. - Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập minh họa. 3. Đổi mới trong hình thức, phương pháp dạy học qua 5 hoạt động: Khởi động - Hình thành kiến thức - Luyện tập - Vận dụng - Mở rộng/sáng tạo Trong thiết kế, giáo viên phải cho thấy rõ các hoạt động của học sinh chiếm vị trí chủ yếu trong tiến trình tổ chức dạy học. Để làm tốt các hoạt động trên, giáo viên cần thực hiện các giải pháp sau: 3.1. Khởi động bài học bằng những tình huống có vấn đề để lôi cuốn, thu hút học sinh hứng thú với bài học Trong phần khởi động giáo viên cần dẫn dắt bài học bằng những tình huống có vấn đề, kích thích nhu cầu ham hiểu biết, khám phá ở học sinh. Đồng thời giáo viên đưa ra phần thưởng cho học sinh nào trả lời được và lí giải sâu sắc những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Cách làm này sẽ khuyến khích, động viên tinh thần học sinh, tác động vào động cơ thành tích, nhu cầu tự khẳng định của các em. Ví dụ 1: Khi dạy bài “Chí Phèo” của Nam Cao, để kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài mới, phần khởi động tôi tổ chức hình thức sau: Nội dung: - Trình chiếu một đoạn phim về “Làng Vũ Đại ngày ấy” ( từ phút thứ 15 đến phút thứ 18 của bộ phim) - Trong đoạn phim trên, em hãy kể tên các nhân vật gắn liền với các tác phẩm viết về đề tài nông dân mà các em đã được học ở THCS? Nhiệm vụ: - Nhận thức được nhiệm vụ cần giải quyết của bài học. Kết quả:- HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ GV nhận xét và giới thiệu bài học: Khi viết về Nguyễn Tuân, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã viết: “Nguyễn Tuân là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực thẩm mĩ”. Phong cách của Nguyễn Tuân là phong cách tài hoa trong việc săn tìm cái đẹp; uyên bác trong việc sử dụng từ ngữ và kiến thức văn hóa, phong cách của một cây bút vừa cổ điển vừa hiện đại. Điều này đã thể hiện rất rõ trong “Chữ người tử tù” trích “Vang bóng một thời”. Với những cách thức khởi động bài học như các ví dụ trên, đã tạo được hứng thú, cuốn hút học sinh vào bài học, khích lệ các em tích cực tìm tòi, sáng tạo góp phần làm cho tiết học thành công. 3.2. Tổ chức hoạt động hình thành kiến thức bằng việc sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại Việc phối hợp, sử dụng linh hoạt đa dạng các phương pháp và kỹ thuật dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương pháp quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Căn cứ vào đặc điểm cụ thể của truyện ngắn hiện đại mà tôi áp dụng những phương pháp, kỹ thuật dạy học như sau: 3.2.1. Sử dụng kết hợp các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực. * Phương pháp thuyết trình: Dạy học theo hướng phát huy năng lực học sinh thì giáo viên hạn chế tối đa việc sử dụng phương pháp này. Người thầy chỉ nên sử dụng trong một vài đoạn bình cảm thụ ngắn với giọng truyền cảm và chọn dùng từ ngữ độc đáo ... sẽ tạo không khí văn học thực sự giúp học sinh tăng thêm hứng thú tìm hiểu, khám phá, sáng tạo. Ví dụ: Khi dạy tác phẩm Hai đứa trẻ, giáo viên có thể bình khắc sâu chi tiết Ngọn đèn dầu ở gánh hàng nước của mẹ con chị Tý được tác giả nhắc tới 7 lần trong tác phẩm. Hình ảnh ngọn đèn dầu ở gánh hàng nước của mẹ con chị Tí là biểu tượng về kiếp sống nhỏ nhoi, vô danh vô nghĩa, lay lắt. Một kiếp sống leo lét, mỏi mòn trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ, không hạnh phúc, không tương lai, cuộc sống như cát bụi. Cuộc sống ấy cứ ngày càng một đè nặng lên đôi vai mỗi con người nơi phố huyện. Tất cả không đủ chiếu sáng, không đủ sức phá tan màn đêm, mà ngược lại nó càng làm cho đêm tối trở nên mênh mông hơn, càng gợi sự tàn tạ, hắt hiu, buồn đến nao lòng. * Phương pháp thảo luận nhóm - Khi tổ chức hoạt động nhóm tôi sử dụng 2 hình thức tổ chức nhóm thảo luận: một là do giáo viên quy định, sắp xếp thành nhóm (gọi là nhóm định sẵn). Giáo viên phân chia nhóm theo vị trí chỗ ngồi - hai bàn là một nhóm - với số lượng 4 học sinh. Các nhóm đó có thể là các nhóm định sẵn với các thành viên - Học sinh có thể trình bày bằng nhiều hình thức khác nhau: bằng văn nói, văn viết, lập bảng, biểu so sánh và sơ đồ hóa bằng bản đồ tư duy, nhưng cốt yếu phải là ngôn ngữ của chính học sinh, diễn đạt theo cách hiểu của học sinh. Ví dụ: Khi dạy truyện ngắn Hai Đứa Trẻ, giáo viên có thể áp dụng phương pháp dạy học tích cực này ở tiết 2: Phân tích cảnh đợi tàu của hai chị em Liên. Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm và giao nhiệm vụ cho các em chuẩn bị ở nhà trước 1 tuần. Các nhóm được giao nhiệm vụ: + Nhóm 1: Chị em Liên thức đợi tàu nhằm mục đích gì? Hình ảnh đoàn tàu được miêu tả như thế nào? + Nhóm 2: Ý nghĩa của hình ảnh đoàn tàu? + Nhóm 3: Việc đợi tàu của chị em Liên hiện ý nghĩa gì? Các em đã thực hiện rất tốt 3 bước: Thu thập thông tin, xử lý thông tin và hoàn thiện sản phẩm cá nhân như đã phân tích ở trên. - Trong tiết học, giáo viên gọi các nhóm lần lượt lên trình bày kết quả, tổ thư ký ghi chép biên bản, nhận xét kết quả làm việc của các nhóm. Tôi nhận thấy mỗi nhóm có những cách tiếp cận và sáng tạo riêng khi tìm hiểu vấn đề. Có nhóm thể hiện sản phẩm của mình trên giấy A0, có nhóm thể hiện trên Powerpoint. Các em chủ động kiến tạo kiến thức và trình bày ý tưởng của mình. Điều này giúp bộc lộ được năng lực, sở trường của các em khi phám phá tác phẩm. 3.2.2. Giáo viên sử dụng đa dạng các câu hỏi nhằm tạo sự bất ngờ, hứng thú cho học sinh tham gia tiết học Thường xuyên đưa ra những câu hỏi sẽ tạo cho học sinh sự tương tác tích cực và tất cả đều phải tham gia vào hoạt động học tập tức “tạo ra trạng thái động cơ học tập”. Nhiều dạng câu hỏi cho nhiều đối tượng học sinh sẽ thỏa mãn nhu cầu đó: * Câu hỏi phân tích, nhận xét, đánh giá Loại câu hỏi này giúp học sinh biết phân tích, đánh giá và khái quát những vấn đề quy tụ vào những đặc trưng về hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng của tác phẩm. Ví dụ: Khi dạy văn bản Chí Phèo của Nam Cao, giáo viên hỏi: Tại sao Nam Cao đã không mở đầu tác phẩm của mình bằng sự kiện Chí ra đời ở cái lò gạch cũ mà mở đầu bằng hình ảnh Chí uống rượu say vừa đi vừa chửi? Hãy phân tích tiếng chửi đó?
File đính kèm:
chuyen_de_day_hoc_van_ban_truyen_hien_dai_viet_nam_trong_chu.docx

