Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 7: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Ngữ văn 9

pptx 42 trang thanh nguyễn 18/10/2025 80
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 7: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 7: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Ngữ văn 9

Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 7: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Ngữ văn 9
 KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH B. CÁC KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Hoàn cảnh cô đơn, cay đắng xót xa của Kiều.
– Sáu câu thơ đầu gợi tả cảnh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian.
– Không gian nghệ thuật được miêu tả dưới con mắt nhìn của Thúy Kiều:
+ Lầu Ngưng Bích là nơi Kiều bị giam lỏng. Hai chữ “khóa xuân” đã nói lên điều đó.
+ Cảnh đẹp nhưng mênh mông, hoang vắng và lạnh lẽo:
 ++ Ngước nhìn xa xa, chỉ thấy dãy núi mờ nhạt.
 ++ Nhìn lên trời cao chỉ có “tấm trăng gần”. -> Thời gian chiều tối, gợi buồn.
 ++ Xa hơn nữa, nhìn ra “bốn bề bát ngát xa trông” là những cát vàng cồn nọ nối tiếp 
nhau cùng với bụi hồng trên dặm dài thăm thẳm.
=>Nghệ thuật liệt kê, đối lập tương phản “non xa”/”trăng gần”, đảo ngữ, từ láy “bát
ngát” ➔ gợi không gian rợn ngợp, vắng lặng không một bóng người. Đối diện với cảnh 
ấy, Kiều cảm thấy trống trải cô đơn.
– Nàng đau đớn, tủi nhục cho thân phận của mình:
 Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
 Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng Chữ “tưởng” ở đây có thể xem là một nhãn tự. Nguyễn Du không dùng chữ “nhớ” mà dùng 
chữ “tưởng”. “Tưởng” vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu.
+ Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu cũng đang hướng về mình, 
đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”.
+ Rồi bất chợt, nàng liên tưởng đến thân phận “bên trời góc biển bơ vơ” của mình. Kiều 
băn khoăn tự hỏi: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”:
 ++ Câu thơ muốn nói tới tấm lòng son của Kiều, tấm lòng nhớ thương Kim Trọng sẽ
không bao giờ phai mờ, nguôi quên dù cho có gặp nhiều trắc trở trong đường đời.
 ++ Câu thơ còn gợi ra một cách hiểu nữa: Tấm lòng son trong trắng của Kiều bị những 
kẻ như Tú Bà, Mã Giám Sinh làm cho dập vùi, hoen ố,biết bao giờ mới gột rửa được?
→ Trong bi kịch tình yêu, Thúy Kiều có nỗi đau về nhân phẩm.
– Nhớ người yêu, Kiều cũng xót xa nghĩ đến cha mẹ:
+ Chữ “xót” diễn tả tấm lòng Kiều dành cho đấng sinh thành:
 ++ Nàng lo lắng xót xa nghĩ đến hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc 
chiều hôm tựa cửa ngóng tin con, hay mong chờ con đến đỡ đần
 ++ Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay. + Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh
đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu.
+ Nội cỏ rầu rầu trải rộng nơi chân mây mặt đất gợi cuộc sống úa tàn, bi thương, vô vọng
kéo dài không biết đến bao giờ.
+ Hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh ầm ầm của tiếng sóng “kêu quanh ghế ngồi”
gợi tâm trạng lo sợ hãi hùng như báo trước, chỉ ngay sau lúc này, dông bão của số phận sẽ
nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.
=> Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man
mác”,“rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm” góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm
trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần;
màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn từ man mác, mông lung đến
lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều.
Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêng đổ dữ
dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để
rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục. 2. Các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả
3. Gợi tả thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian ở đây cũng như không gian đang giam 
hãm con người, sớm với khuya, ngày với đêm, Kiều thui thủi một mình nơi quê người.
4. Nội dung chính: Hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều ở lầu Ngưng Bích
Đề số 2
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
 Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, 
 Tin sương luống những rày trông mai chờ.
 Bên trời góc bể bơ vơ
 Tấm son gột rửa bao giờ cho phai 
 Xót người tựa cửa hôm mai
 Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
 Sân Lai cách mấy nắng mưa 
 Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
1. Đoạn thơ trên trích trong văn bản nào? Văn bản ấy trích trong tác phẩm nào? Do ai sáng
tác? lớn nhất của Nguyễn Du là đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật thi ca. Đọc tác phẩm,
chúng ta không thể quên được đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".. Lầu Ngưng Bích chơi
vơi giữa biển khơi là điểm dừng chân đầu tiên trên con đường lưu lạc đầy cay đắng và tủi
nhục của Thúy Kiều. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là nỗi cô đơn buồn tủi, niềm nhớ
thương da diết về quê hương gia đình và người thân của Kiều. Đó cũng là thể hiện tấm
lòng thủy chung hiếu thảo của nàng. Đến với tám câu thơ giữa là tâm trạng nhớ thương da
diết của Kiều về gia đình và người thân. Trước hết, Nguyễn Du để cho Kiều nhớ Kim
Trọng (điều này khác hẳn với Thanh Tâm tài nhân). Nàng đã từng uống rượu ăn thề cùng
Kim Trọng dưới ánh trăng nhưng rồi đã phải xót xa trao mối tình ngọt ngào ấy cho Thúy
Vân. Trên đường về Lâm Tri theo Mã giám Sinh nàng vẫn thương cho Kim Trọng trong
cô đơn buồn tủi: "Một trời thu để riêng ai một người". Giờ đây trong lúc mà thời gian cứ
trôi đi Kiều nhớ Kim Trọng là tưởng nhớ tới lời thề đôi lứa: "Tưởng người dưới nguyệt
chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột
rửa bao giờ cho phai." Những lời thề nguyền đâu còn nữa, cái cây cầu trần thế mà Kiều và
Kim Trọng phải bước qua thật là éo le. Nàng tưởng tượng cái cảnh Kim Trọng đang hướng
về mình, đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích "Tin sương luống những rày trông
mai chờ". Trong nỗi nhớ ấy người đọc nhận ra một tâm trạng xót xa đau đớn. Nàng tự hứa trong cảnh cứ hòa quyện đan xen làm nổi bật chủ đề đoạn thơ. Bức tranh tâm trạng của 
người con gái họ Vương vì thế neo đậu mãi trong lòng người đọc.
Đề số 3
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
 Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, 
 Tin sương luống những rày trông mai chờ.
 Bên trời góc bể bơ vơ
 Tấm son gột rửa bao giờ cho phai 
 Xót người tựa cửa hôm mai
 Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
 Sân Lai cách mấy nắng mưa 
 Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
1. Em hãy nêu nội dung của đoạn thơ trên?
2. Cụm từ “tấm son” có nghĩa gì?
3. Nêu dụng ý nghệ thuật của tác giả khi sử dụng từ “tưởng” và “xót” trong đoạn thơ trên.
4. Thành ngữ nào được sử dụng trong đoạn trích trên? Đề số 4
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
 Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, 
 Tin sương luống những rày trông mai chờ.
 Bên trời góc bể bơ vơ
 Tấm son gột rửa bao giờ cho phai 
 Xót người tựa cửa hôm mai
 Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
 Sân Lai cách mấy nắng mưa 
 Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
1. Nêu vị trí đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”?
2. Tìm từ láy trong đoạn trích trên?
3. Em hãy nhận xét về trình tự thương nhớ của Thúy Kiều trong đoạn trích trên. Theo em 
thứ tự đó có hợp lý không?
4. “Người tựa cửa hôm mai” được nói tới trong đoạn thơ trên là ai? Những suy nghĩ của 
nàng Kiều về người đó được thể hiện như thế nào? - Suy nghĩ của Kiều về cha mẹ:
 + Nàng xót cho cha mẹ già sớm chiều tựa cửa ngóng tin con, nàng xót xa, lo lắng cho 
cha mẹ vì ở nhà không ai phụng dưỡng, đỡ đần.
5. Tham khảo đoạn văn đề số 2 “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác
nhau. Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láy chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn
dập, chỉ có một từ láy tượng thanh ở câu cuối tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một
tăng, dâng lên lớp lớp, nỗi buồn vô vọng, vô tận. Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở
thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng.
Cảnh 1: Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng
Kiều. Một cánh buồm nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói
cuối cùng của mặt trời sắp tắt; cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn
về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia đình, quê hương. Con thuyền gần như mất
hút, vẫn còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với
những người thân yêu.
Cảnh 2: Buồn trông ngọn nước mới ra,
.Hoa trôi man mác biết là về đâu? không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực. Nỗi
buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Thiên nhiên chân thực, sinh
động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật “Cảnh nào cảnh
chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
– Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động
để diễn đạt nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm
cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tất cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự
dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối
nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời “thanh lâu
hai lượt, thanh y hai lần”.
=>Tóm lại:
Cảnh thiên nhiên là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc của mình. - Vừa tạo ra sự đối lập thiên nhiên rộng lớn- con người nhỏ bé cô đơn vừa tạo ra sự tương
đồng: cảnh ngổn ngang - tâm trạng ngổn ngang, cảnh mờ mịt nhạt nhòa - tâm trạng u buồn,
bế tắc.
- Nguyễn Du sử dụng điệp ngữ, các từ láy tạo nên sự trùng điệp như nỗi lòng của Kiều
đang "Lớp lớp sóng dồi"
3. Kết bài:
- Khẳng định nghệ thuật vịnh cảnh ngụ tình đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du.
- Xót thương số phận tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều.
- Căm ghét xã hội phong kiến xấu xa, thối nát, tàn bạo.

File đính kèm:

  • pptxbo_48_bai_giang_chuyen_de_on_thi_vao_10_bai_7_kieu_o_lau_ngu.pptx