Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 4: Truyện Kiều - Ngữ văn 9
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 4: Truyện Kiều - Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 4: Truyện Kiều - Ngữ văn 9

TRUYỆN KIỀU -Nguyễn Du- b. Gia đình - Gia đình Nguyễn Du là gia đình đại quý tộc nhiều đời làm quan và có truyền thống văn chương. Nhưng gia đình ông cũng bị sa sút. Nhà thơ mồ côi cha năm 9 tuổi, mồ côi mẹ năm 12 tuổi. Hoàn cảnh đó cũng tác động lớn tới cuộc đời ông. c. Cuộc đời -Nguyễn Du có năng khiếu văn học bẩm sinh, ham học, có hiểu biết sâu rộng và từng trải, có vốn sống phong phú với nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với nhiều cảnh đời, nhiều con người, nhiều số phận khác nhau. Ông từng đi sứ sang Trung Quốc, qua nhiều vùng đất Trung Hoa rộng lớn với nhiều nền văn hóa rực rỡ. Tất cả những điều đó có ảnh hưởng tới sáng tác của nhà thơ. - Nguyễn Du là con người có trái tim giàu lòng yêu thương. Chính nhà thơ đã từng viết trong Truyện Kiều “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Mộng Liên Đường Chủ Nhân trong lời nói Tựa Truyện Kiều cũng đề cao tấm lòng của Nguyễn Du với con người, cuộc đời:“Lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thẫm trên tờ giấy khiến ai đọc cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đến đứt ruột”. Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có bút lực ấy. d. Về sự nghiệp văn học của Nguyễn Du: tác giả được viết dựa trên cốt truyện có sẵn của văn học TQ hoặc do tác giả tự tạo ra. Truyện Nôm phát triển mạnh mẽ nhất ở nửa cuối thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX. - Ý nghĩa nhan đề: Truyện Kiều có 2 tên chữ Hán và tên chữ Nôm + Tên chữ hán: “Đoạn trường tân thanh”: tiếng kêu mới về nỗi đau thương đứt ruột (bộc lộ chủ đề tác phẩm - tiếng kêu cứu cho số phận người phụ nữ). + Tên chữ nôm: Truyện Kiều: tên nhân vật chính Thúy Kiều – do nhân dân đặt. - Tóm tắt Truyện kiều. a, Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước. - Vương Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng của một gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” bên cạnh cha mẹ và hai em là Thúy Vân và Vương Quan. Trong buổi du xuân nhân tết thanh minh, Kiều gặp Kim Trọng “phong lưu tài mạo tót vời”. Giữa hai người chớm nở mối tình đẹp. Kim Trọng dọn đến trọ cạnh nhà Thúy Kiều, nhân trả chiếc thoa rơi, Kim trọng gặp Kiều bày tỏ tâm tình. Hai người chủ động tự do đính ước với nhau. b, Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc. Chiều theo ý mọi người, Thúy Kiều nối lại duyên cũ với Kim Trọng nhưng cả hai cùng nguyện ước “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.” 3. Giá trị tác phẩm a) Giá trị hiện thực: - Truyện Kiều phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và thế lực hắc ám chà đạp lên quyền sống của con người. *Bọn quan lại: + Viên quan xử kiện vụ án Vương Ông vì tiền chứ không phải vì lẽ phải. + Viên quan tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến là kẻ bất tài, nham hiểm, bỉ ổi và trâng tráo. * Thế lực hắc ám: + Mã Giám sinh, Tú Bà, Sở Khanh là những kẻ táng tận lương tâm. Vì tiền chúng sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm và số phận con người lương thiện. → tác giả lên tiếng tố cáo bộ mặt bỉ ổi của chúng. - Truyện Kiều phơi bày nỗi khổ đau của những con người bị áp bức, đặc biệt là người phụ nữ. + Vương Ông bị mắc oan, cha con bị đánh đập dã man, gia đình tan nát. + Về ngôn ngữ: Là ngôn ngữ văn học hết sức giàu và đẹp, đạt đến đỉnh cao ngôn ngữ nghệ thuật. + Với Truyện Kiều, nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc. ++ Tiếng Việt trong Truyện Kiều không chỉ có chức năng biểu đạt, phản ánh, biểu cảm (bộc lộ cảm xúc) mà còn có chức năng thẩm mĩ (vẻ đẹp của ngôn từ). ++ Ngôn ngữ kể truyện có 3 hình thức: trực tiếp (lời tác giả), nửa trực tiếp (lời tác giả mang suy nghĩ, giọng điệu nhân vật). Nhân vật trong truyện xuất hiện cả với con người hành động và con người cảm nghĩ, có biểu hiện bên ngoài và thế giới bên trong sâu thẳm. ++ Thành công ở thể loại tự sự, có nhiều cách tân sáng tạo, phát triển vượt bậc trong ngôn ngữ thơ và thể thơ truyền thống. ++ Về nghệ thuật xây dựng nhân vật: Khắc họa nhân vật theo phương thức tự sự, miêu tả chi tiết bằng vài nét chấm phá mỗi nhân vật trong Truyện Kiều hiện lên như một chân dung sống động. Cách xây dựng nhân vật chính diện thường được xây dựng theo lối lý tưởng hóa, được miêu tả bằng những biện pháp ước lệ, nhưng rất sinh động. Nhân vật phản diện của Nguyễn Du chủ yếu được khắc họa theo lối lý tưởng hóa, bằng bút pháp tả thực, cụ thể và rất hiện thực (Miêu tả qua ngoại hình, ngôn ngữ, hành động.. của nhân vật). BÀI 2. CÁC DẠNG ĐỀ VIẾT TẬP LÀM VĂN I. TÓM TẮT NGẮN GỌN TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU TRONG 20 DÒNG. * Gợi ý: Tóm tắt truyện. Phần 1. Gặp gỡ và đính ước - Chị em Thúy Kiều đi chơi xuân, Kiều gặp Kim Trọng (bạn Vương Quan) quyến luyến. -Kim Trọng tìm cách dọn đến ở gần nhà, bắt được cành thoa rơi, trò chuyện cùng Thuý Kiều, Kiều- Kim ước hẹn nguyền thề. Phần 2. Gia biến và lưu lạc - Kim về hộ tang chú, gia đình Kiều gặp nạn. Kiều bán mình chuộc cha. -Gặp Thúc Sinh, Chuộc khỏi lầu xanh. Bị vợ cả Hoạn Thư đánh ghen, bắt Kiều về hành hạ trước mặt Thúc Sinh. -Kiều xin ra ở Quan Âm Các, Thúc Sinh đến thăm, bị Hoạn Thư bắt, Kiều sợ bỏ trốn ẩn náu ở chùa Giác Duyên. Kiều rơi vào tay Bạc Bà, rồi lại rơi vào lầu xanh lần hai. - Kiều gặp Từ Hải, được chuộc khỏi lầu xanh. Kiều báo ân báo oán. Bị mắc lừa Hồ Tôn Hiến. Từ Hải chết. Kiều bị gán cho viên Thổ quan. Kiều nhảy xuống dòng Tiền Đường tự vẫn. Sư bà Giác Duyên cứu thoát về tu ở chùa. Phần 3. Đoàn tụ -Mẹ là Trần Thị Tần xuất thân dòng dõi bình dân, người xứ Kinh Bắc, là vợ thứ ba và ít hơn chồng 32 tuổi. - Thuở niên thiếu Nguyễn Du chịu nhiều ảnh hưởng của mẹ. c. Thời đại. - Cuối Lê đầu Nguyễn - thời kì phong kiến Việt Nam suy tàn , giai cấp thống trị thối nát, đời sống xã hội đen tối, nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Khởi nghĩa Tây Sơn. d. Cuộc đời. -Từng làm quan cho nhà Lê, chống lại Tây Sơn nhưng thất bại, định trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh nhưng không thành, bị bắt rồi được thả. - Sống lưu lạc ở miền Bắc, về quê ở ẩn, nếm trải cay đắng - Năm 1802 làm quan cho triều Nguyễn, tài giỏi được cử đi xứ sang Trung Quốc hai lần. e. Sự nghiệp thơ văn. - Ông để lại một di sản văn hóa lớn cho dân tộc: + Thơ chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập, Bắc hành tạp lục, Nam Trung tạp ngâm. + Thơ chữ Nôm: Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều), Văn chiêu hồn, Văn tế sống hai cô gái trường lưu. e. Tư tưởng tình cảm III. NHẬN XÉT VỀ TRUYỆN KIỀU, CÓ Ý KIẾN CHO RẰNG: “SỰ THÀNH CÔNG VĨ ĐẠI NHẤT CỦA TÁC PHẨM VẪN LÀ TẤM LÒNG NHÂN ĐẠO CỦA NGUYỄN DU THỂ HIỆN MỘT CÁCH THIẾT THA, MÊNH MÔNG ĐẾN NÃO LÒNG TRONG TÁC PHẨM". BẰNG HIỂU BIẾT CỦA MÌNH VỀ TRUYỆN KIỀU, HÃY LÀM SÁNG TỎ Ý KIẾN TRÊN. Ngoài việc tái dựng một bức tranh hiện thực khốc liệt và đớn đau, cảnh báo về những số phận đang bị chà đạp, rẻ rúng của thực trạng xã hội thế kỉ XVIII, tác phẩm “Truyện Kiều” vĩ đại của Nguyễn Du còn là sự thể hiện đến mênh mông, không bờ bến một quan điểm nhân đạo sâu sắc, tha thiết với con người, cuộc đời. Đó là những con người, những cuộc đời cụ thể đến mức xót xa, căm phẫn. Ở đây, trong tác phẩm này, là người phụ nữ. Ai đó đã nói rằng, nếu xã hội xưa tạo nhiều bất hạnh cho con người, thì trong lớp người đó, bất hạnh nhất vẫn là người phụ nữ. Tã hiểu vì sao Nguyễn Du chọn đối tượng này để cụ thể hóa chủ nghĩa nhân đạo của mình. Là người trong cuộc, tự trong sâu thẳm của đôi mắt nhìn thắm thiết, hơn ai hết, Nguyễn Du cho rằng: “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” bênh vực. Với tình cảm đó, Nguyễn Du luôn khẳng định phẩm giá - phẩm giá của một người cứ muốn vươn lên, vùng vẫy, chứng tỏ giá trị. Nguyễn Du gọi đó là giá trị: “Hải đường mơn mởn cành tơ Ngày xuân cùng gió càng mưa càng nồng”, Thật vậy, 15 năm đoạn trường ở vào nhiều cảnh ngộ, Kiều vẫn không ngừng vùng vẫy. Khẳng định nét đẹp đó của Thúy Kiều trước hết xuất phát từ tấm lòng yêu thương con người, quý trọng tâm hồn con người ở Nguyễn Du. Đó cũng là cội nguồn lý giải sự xuất hiện của nhân vật Từ Hải giữa sóng gió đời Kiều. Bênh vực, chở che và ước muốn một kiểu công lý đích thực, hữu hiệu cho cuộc đời đó, Nguyễn Du với tấm lòng nhân đạo cao cả đã xây dựng nhân vật anh hùng Từ Hải. Không có công lý từ phía giai cấp thống trị, lại muốn mở ra một ánh sáng cuối đường hầm, lần đầu tiên trong trật tự của xã hội phong kiến diễn ra một phiên tòa xét xử mà người thi hành công lý là một cô gái giang hồ và một “Tướng giặc”. Cảm nhận sự hoán đổi trật tự - một điều tối kị của trật tự phong kiến - mới thấy hết bể nguồn nhân ái vĩ đại của tấm lòng Nguyễn Du. Chính vì yêu thương đến tha thiết với con người, Nguyễn Du đã mơ ước - mơ ước về một thứ công lý đích thực, sòng phẳng và có hiệu quả cho đời Thúy Kiều. Với Kiều - công lý đó, những oan khiên của cuộc đời “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” ấy mới có thể IV. CHỨNG MINH RẰNG: TRUYỆN KIỀU LÀ MỘT BẢN CÁO TRẠNG LÊN ÁN MỘT XÃ HỘI BẤT NHÂN CHÀ ĐẠP LÊN QUYỀN SỐNG, QUYỀN HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI. 1. Mở bài Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: “Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” Tái hiện cái đau khổ của 15 năm lưu lạc, kể lại nỗi đoạn trường của một cô gái tài sắc, thông minh, hiếu thảo nhưng phận bạc, trước hết Nguyễn Du muốn cụ thể hóa, hình ảnh hóa cái xã hội bất nhân chà đạp, xô đẩy con người. Trên cơ sở đó, ông thức tỉnh lương tâm con người, cảnh báo với mọi người cái ảo tưởng: “Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng” của chế độ phong kiến thế kỷ XVIII. Chính vì vậy ngoài một tấm lòng chứa chan nhân ái với số phận con người, Truyện Kiều còn được nhìn nhận như một bản một bản cáo trạng bằng thơ “lên án một xã hội bất nhân chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người”. “Chiếc bách giữa dòng”. Nàng bị đẩy vào lầu xanh mở đầu một chuỗi những tai họa thảm khốc của kiếp: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Còn gì đớn đau hơn bi kịch này với một cô gái khuê các, có học, một cô gái mà trước kia Nguyễn Du mô tả: “Tường đông ong bướm đi về mặc ai” Ở thanh lâu, Kiều phải chịu bao nhiêu đớn đau, tủi nhục. Cái tủi nhục của kẻ muốn gìn giữ nhân phẩm, nhân cách nhưng cuối cùng điều đó chỉ là phù vân, ảo tưởng. Đến lúc này, Nguyễn Du như không thể giữ được thái độ trầm tĩnh, khách quan của người đọc cáo trạng ông đau đớn đến xé lòng và thốt lên: “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” Với thái độ đó, ông muốn cùng Kiều chia xẻ cái tâm sự: “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình mình lại thương mình xót xa” Chưa hết, số phận hay chính cái trá ngụy bất nhân của xã hội lại tiếp tục xô đẩy cánh hoa lạc loài kia, sao cho “cho hại, cho tàn, cho cân” thì mới hả hê. Kiều sa vào tay Hoạn Thư, ở đây, phải chịu cực hình của kiếp làm lẽ. Cái kiếp mà sau đó, Hồ Xuân Hương cũng tỏ ra rất căm phẫn: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”.
File đính kèm:
bo_48_bai_giang_chuyen_de_on_thi_vao_10_bai_4_truyen_kieu_ng.pptx