Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 33: Ôn tập văn nghị luận, một số thao tác lập luận - Ngữ văn 9

pptx 16 trang thanh nguyễn 22/10/2025 50
Bạn đang xem tài liệu "Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 33: Ôn tập văn nghị luận, một số thao tác lập luận - Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 33: Ôn tập văn nghị luận, một số thao tác lập luận - Ngữ văn 9

Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 33: Ôn tập văn nghị luận, một số thao tác lập luận - Ngữ văn 9
 ÔN TẬP VĂN NGHỊ LUẬN + Nghị luận về một tư tưởng đạo lý.
- Nghị luận văn học:
 + Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
 + Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
II. MỘT SỐ THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
* Phương pháp lập luận rất đa dạng và biến hóa. Khi muốn trình bày một ý kiến, muốn giải
thích, chứng minh hay bình luận một vấn đề, người viết hoặc người nói phải sử dụng những 
phép biện luận, lập luận sau:
- Phân tích và tổng hợp.
- Quy nạp.
- Diễn dịch.
A. PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP:
1. Phân tích
- Phân tích là phương pháp phân chia trong thực tế hay trong ý nghĩa sự vật, hiện tượng, 
thuộc tính hay quan hệ ra thành các yếu tố cấu thành, sau đó nghiên cứu từng yếu tố cấu
thành ấy một cách riêng rẽ, để cuối cùng sử dụng thao tác tổng hợp tiếp theo. tích và tổng hợp xen kẽ nhau, bổ sung cho nhau cho đến khi nhận thức được toàn bộ sự vật
như một chỉnh thể.
Ví dụ a:
(..) "Người mẹ sinh con, mang nặng đẻ đau. Người mẹ nuôi con bằng dòng sữa của mình,
bằng tâm huyết của mình, bằng toàn bộ tinh lực của mình. Ngoài nghĩa cả đối với Tổ quốc,
đối với cách mạng có tình cảm thiêng liêng nào hơn tình cảm mẹ con? Có sự hi sinh tận
tụy nào bằng sự hi sinh tận tụy của người mẹ đối với con?
 "Dạy con từ thuở còn thơ", đứa trẻ tiếp thu văn hóa loài người, đầu tiên chính là qua
người mẹ, từng giây, từng phút, người mẹ truyền cho con những tình cảm, những ý nghĩ
của mình, những điều mình từng trải trong cuộc sống. Mỗi lời nói, mỗi nụ cười, mỗi nét
mặt buồn hay vui của người mẹ đều in sâu vào tâm hồn đứa trẻ những ấn tượng mà đứa
trẻ giữ mãi trong suốt cuộc đời. Dạy con biết nói, biết cười, ru con bằng điệu hát đầy ý
nghĩa, khuyên bảo con những lẽ phải điều hay, v.v... chính bằng cách đó, người mẹ đã góp
phần giữ gìn và lưu truyền văn hóa dân tộc từ đời này sang
đời khác.
 Không có sự đánh giá nào chính xác hơn, đầy đủ hơn sự đánh giá sau đây của Hồ
Chủ tịch đối với công lao người mẹ: "Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam + Đoạn 3, phân tích công lao to lớn của các bà mẹ ở hai miền Nam Bắc đã sinh đẻ và nuôi
dạy những thế hệ anh hùng. Tác giả khái quát, tổng hợp: có những con người anh hùng là
nhờ có những người mẹ anh hùng. Phụ nữ Việt Nam anh hùng, chúng ta tự hào về những
bà mẹ Việt Nam.
Ví dụ b.
 Đại trượng phu
1. Cảnh Xuân hỏi thầy Mạnh Tử:
-Công Tôn Diễm và Trương Nghi chỉ nổi một cơn giận khi đi du thuyết thì các nước chư
hầu phải sợ; ngồi yên một chỗ thì thiên hạ không có chiến tranh. Hai người như thế chẳng
phải là đại trượng phu ư?
-Hai người ấy gọi là đại trượng phu sao được? A dua, xiểm nịnh, nói lấy lòng vua các
nước chư hầu để được quyền thế dọa người; tư cách hai người ấy như đàn bà lẽ mọn, thừa
thuận phục tùng. Đại trượng phu đâu có thế!
2. Bậc đại trượng phu phải là:
- Tâm địa chí công như ở cái nhà rất rộng trong thiên hạ. + Phần 1, Mạnh Tử phân tích và chỉ rõ Công Tôn Diễm và Trương Nghi, hai nhà thuyết
khách nổi tiếng thời Chiến quốc chỉ là loại người a dua, xiểm nịnh, dựa quyền thế vua chúa
để dọa người, hại người; tư cách như đàn bà lẽ mọn. Mạnh Tử phủ định: Công Tôn Diễm,
Trương Nghi không phải là đại trượng phu.
+ Phần 2, Mạnh Tử nêu lên 5 tiêu chí - phẩm chất của bậc đại trượng phu: 1. Tâm địa chí
công; 2. xử sự mực thước; 3. hành động quang minh; 4. biết xuất, xử lúc gặp thời và khi
không gặp thời; 5. cách ứng xử cao đẹp (lúc giàu sang, lúc nghèo khổ, lúc bị uy hiếp đều
không thay đổi khí tiết).
+ Phần 3, khẳng định: “thế mới gọi là đại trượng phu chứ”.
→ Ta thấy lí lẽ sắc bén, hùng biện, lập luận phân phân tích - tổng hợp rất chặt chẽ. a. "Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đột Pháp. Bọn thực dân Pháp
hoặc bỏ chạy, hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ” được ta, trái lại,
trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
 (...) Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không
phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta nổi dậy
giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay
Pháp”. 
 (Trích "Tuyên ngôn Độc lập", Hồ Chí Minh)
Nhân xét:
- Từ những sự kiện lịch sử như: Từ 1940-1945, trong 5 năm, Pháp bán nước ta hai lần cho 
Nhật; từ mùa thu năm 1940, Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Nhật; Nhật hàng Đồng
minh; nhân dân ta đã giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - tác 
giả đi đến kết luận (quy nạp): “Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, trong sách vở, học trong cuộc đời, “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Học đi đôi với
hành. Biết học còn phải biết hỏi. Tóm lại, chúng ta phải chăm chỉ, sáng tạo trong học tập;
học tập một cách thông minh và có mục tiêu học tập đúng đắn.
2. Diễn dịch là như thế nào?
-Diễn dịch không chỉ là phương pháp trong đó quá trình suy lí đi từ cái chung đến cái
riêng, mà còn là phương pháp rút ra các chân lí mới từ các chân lí đã biết nhờ các quy luật
và quy tắc của lô-gíc học.
-Quy nạp phải được bổ sung bằng diễn dịch cũng như diễn dịch phải được bổ trợ bằng quy
nạp. Quy nạp và diễn dịch gắn bó chặt chẽ với nhau như phân tích và tổng hợp. Chúng liên
hệ với nhau, bổ sung lẫn nhau.
-Trong một luận đề cụ thể, một bài văn cụ thể, nhất là kiểu bài chứng minh, phân tích văn
học, chúng ta phải biến thao tác quy nạp - diễn dịch thành kĩ năng thành thục, biến hóa.
Ví dụ: b. Em rất kính yêu và biết ơn mẹ. Có lẽ vì em là con út trong gia đình nên được mẹ dành
cho nhiều tình yêu thương nhất. Mẹ tần tảo lo toan việc nhà từ bát cơm, bát canh đến tấm
áo cho chồng con. Mùa hè cho đến mùa đông, mẹ đều thức khuya dậy sớm. Nét mặt mẹ
đôn hậu, cử chỉ mẹ dịu dàng. Mẹ hi sinh, mẹ chăm chút việc học hành của đàn con thơ. Mẹ
luôn nhắc nhở mấy chị em phải chăm chỉ, học hành, nay mai thi vào Đại học, đi học nghề,
có công ăn việc làm chắc chắn. Mỗi lần được điểm 10, em về khoe mẹ, mẹ rất vui. Mẹ sung
sướng, hãnh diện khi thấy đàn con ngày một
khôn lớn. Tóc mẹ ngày một bạc thêm các con chưa đỡ đần mẹ được bao nhiêu. Em chỉ cầu
mong mẹ được vui, được khỏe mãi.
c. Hồ Chí Minh là hình ảnh sống về đạo đức cách mạng. Ở Hồ Chí Minh, thể hiện toàn vẹn
đức tính chí công vô tư, cần, kiệm, liêm, chính, nhân, nghĩa, trí, dũng, với nội dung mới,
mà Người đã đề ra cho Đảng, toàn dân. Nét đặc biệt của Hồ Chí Minh là khiêm tốn, giản
dị, sự khiêm tốn, giản dị chân thành và hồn nhiên của con người bao giờ cũng là chính
mình, và chỉ cần là chính mình. Địa vị càng cao, uy tín càng lớn, Hồ Chí Minh càng khiêm
tốn và giản dị. Trước tất cả và hơn hết mọi người trong mỗi ngày, mỗi việc, Hồ Chí Minh
đã làm đúng điều Người nhắc nhở mọi cán bộ cách mạng, là trung thành và tận tụy làm

File đính kèm:

  • pptxbo_48_bai_giang_chuyen_de_on_thi_vao_10_bai_33_on_tap_van_ng.pptx