Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 12: Đoàn thuyền đánh cá - Ngữ văn 9
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 12: Đoàn thuyền đánh cá - Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 12: Đoàn thuyền đánh cá - Ngữ văn 9

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ -Huy Cận- vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trườngHuy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. – Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958). b. Bố cục: 3 phần Bài thơ có 7 khổ, được kết cấu theo sự vận động của thời gian và hành trình của một chuyến ra khơi đánh cá: −Hai khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống. −Bốn khổ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp. −Khổ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời trên biển. c. Cảm hứng chủ đạo: −Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự B. CÁC KIẾN THỨC TRỌNG TÂM 1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống (Khúc hát ra khơi) – Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then,đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát căng buồm cùng gió khơi.” - Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh - bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu. * Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. + Nếu chỉ căn cứ vào thực tế sẽ thấy câu thơ có vẻ vô lí, bởi trên vịnh Hạ Long- ở hướng Đông, không thể thấy cảnh mặt trời xuống biển như thế, mà chỉ có thấy mặt trời mọc được + Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm. + Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc, là hoạt động hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển. + “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương. Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả – Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi: “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng, Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng, Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” → Đoàn thuyền đánh cá băng băng lướt sóng, bủa vây điệp trùng. Công việc lao động trên biển như là một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm việc với tất cả lòng dũng cảm, sự hăng say, trí tuệ nghề nghiệp, tâm hồn phơi phới. – Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo: Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng. Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe - Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”,”vàng chóe” đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng biển đêm sâu thẳm. Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ – những người ngư dân này – cá là bạn, là Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. + “Gõ thuyền” là công việc thực của người đánh cá, nhưng cái độc đáo ở đây là vầng trăng được nhân hóa, tham gia lao động cùng con người. + Người dân chài hát bài ca gọi cá, bài ca về lòng biết ơn mẹ biển giàu có, nhân hậu. – Sao mờ, đêm tàn cũng là lúc người dân chài kéo lưới kịp trời sáng. Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa đầy chất thơ với không khí khẩn trương, gấp gáp: Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. - Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh sơn mài rực rỡ. Người kéo lưới là trung tâm của cảnh được khắc họa rất độc đáo với thân hình gân guốc, chắc khỏe cùng thành quả thu về “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Màu hồng của bình minh làm ấm sáng bức tranh lao động. Thiên nhiên và con người cùng nhịp nhàng trong sự vận hành của vũ trụ. 4. Tổng kết a.Nội dung: Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. b.Nghệ thuật: - Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan. 2.Cách viết đó tưởng như vô lí nhưng lại có lí ở điểm nhìn của tác giả đang ở trên thuyền ngoài khơi xa hoặc trên một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía Tây sẽ thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. 3.Đoạn văn cần đảm bảo các ý sau: -So sánh “mặt trờihòn lửa” làm nổi bật vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ của cảnh biển lúc hoàng hôn. -Ẩn dụ “sóngcửa” tạo nên liên tưởng thật đẹp, vũ trụ như 1 ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống, là tấm cửa khổng lồ có những lượn sóng là then cửa. -Nhân hóa “sóngcửa” làm cho cảnh thiên nhiên thật sinh động. Cảnh biển lúc hoàng hôn vừa hiện thực vừa lãng mạn. 2. Câu thơ “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”: -Biện pháp nghệ thuật: nhân hóa, nói quá qua từ “lái”. -Tác dụng: Góp phần khắc hoạ vẻ đẹp người ngư dân về: + Tư thế: Lớn lao, kì vĩ ngang tầm thiên nhiên, vũ trụ. + Tâm hồn: phóng khoáng, lãng mạn. 3. Tham khảo: Đoạn thơ phần giữa của tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” nổi bật với vẻ đẹp tráng lệ của biển khơi và vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ của đoàn thuyền, của con người trong lao động. Tất cả được viết lên bằng trí tưởng tượng mãnh liệt, bằng niềm hứng khởi bay bổng và bút pháp tạo hình đầy sáng tạo. Đầu tiên là hình ảnh đoàn thuyền lướt nhanh giữa trời cao biển rộng có cái lân lân, sảng khoái lạ thường: Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển trời bao la, đã trở thành con thuyền kì vĩ, lớn lao mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm, lướt giữa mây cao và biển bằng, giữa mây trời và sóng nước với tất cả sức mạnh chinh phục biển cả, chinh phục thiên nhiên. Hình ảnh này thể hiện rất rõ sự thay đổi trong cảm hứng nghệ thuật của Huy Cận trước và sau cách mạng. Chủ nhân con thuyền – những người lao động cũng trở nên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế, tầm vóc làm chủ cuộc đời. Đề số 3 Cho câu thơ sau: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa.” 1.Chép tiếp các câu thơ để được hai khổ thơ đầu tiên của bài ‘Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận 2.Giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” 3.Em hiểu như thế nào về hình ảnh thơ: Sóng đã cài then đêm sập cửa? 4.Bài thơ có bao nhiêu từ “hát”? Có thể coi bài thơ là một khúc ca, vậy đó là khúc ca gì? 5.Viết đoạn văn từ 10 đến 15 câu nêu cảm nhận về hai khổ thơ vừa chép? * Gợi ý giải 1. Chép tiếp thơ: Mặt trời xuống biển như hòn lửa. Sóng đã cài then, đêm sập cửa. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng, 4.Trong bài thơ có bốn từ “hát”. Có thể coi cả bài thơ là một khúc ca, đó là khúc tráng ca của người dân lao động với tinh thần làm chủ, niềm vui phơi phới và hành trình của câu hát cũng là hành trình ra khơi đánh cá rồi trở về → Khúc ca lao động đầy sức sống. 5.Tham khảo: “Đoàn thuyền đánh cá” là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ. Đoàn thuyền ra khơi được miêu tả trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp: Mặt trời xuống biển như ngọn lửa./ Sóng đã cài then đêm sập cửa. Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu: Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,/ Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài sự liên tưởng độc đáo, là kết quả của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có: Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng./ Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi! Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động. Đề số 4 Cho câu thơ sau: “Ta hát bài ca gọi cá vào” 1.Chép tiếp chính xác 7 câu tiếp để hoàn chỉnh đoạn thơ 2.Chỉ ra và nêu ý nghĩa của việc sử dụng các từ ngữ thuộc trường từ vựng màu sắc ở trong đoạn thơ? 3.Viết đoạn văn khoảng 13 đến 17 câu để làm rõ: “Đoàn thuyền đánh cá không chỉ là một bức tranh sơn mài lộng lẫy vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là một bài ca ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động”. Trong đoạn văn có sử dụng một câu phủ định và 1 thành phần biệt lập tình thái.
File đính kèm:
bo_48_bai_giang_chuyen_de_on_thi_vao_10_bai_12_doan_thuyen_d.ppt