Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 11: Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Ngữ văn 9

ppt 42 trang thanh nguyễn 18/10/2025 80
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 11: Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 11: Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Ngữ văn 9

Bộ 48 Bài giảng Chuyên đề Ôn thi vào 10 - Bài 11: Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Ngữ văn 9
 BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
 -Phạm Tiến Duật- −Tác phẩm chính: Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Gửi em cô thanh niên xung phong, 
Lửa đèn, Bài thơ về tiểu đội xe không kính
−Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
2.Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
-Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng 
giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Chùm thơ đã khẳng định giọng thơ 
riêng của của ông. Sau này bài thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970) 
của tác giả.
-Bài thơ được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, 
ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên 
đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết 
mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Ở đó, không lực Hoa Kì ngày đêm trút bom, vãi
đạn hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam.Vượt qua mưa 
bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ và hi sinh để ra 
trận. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. 
Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở 
của bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác 
liệt của chiến tranh.
* Ý nghĩa nhan đề bài thơ
- Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề ấy lại thu 
hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của
toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một sự phát hiện thú vị của tác giả, 
thể hiện sự gắn bó và am hiểu của nhà thơ về hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến 
đường Trường Sơn. Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “Bài thơ”? Hai 
chữ “bài thơ”nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết 
về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu 
là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam 
dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn, gian khổ, khắc nghiệt của chiến tranh. “không có đèn”,”không có mui xe”,”thùng xe có xước”. Từ đó, tác giả đã tạo ấn tượng 
cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về 
cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.
=> Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có 
một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện
ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.
3. Hình ảnh người lính lái xe
* Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở 
Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để 
người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc
biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.
a. Vẻ đẹp của người lính lái xe trước hết thể hiện ở tư thế hiên ngang, ung dung, 
đường hoàng, tự tin, và tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. + Các hình ảnh “con đường”,”sao trời”,”cánh chim” diễn tả rất cụ thể cảm giác của 
những người lính khi được lái những chiếc xe không kính. Khi xe chạy trên đường bằng, 
tốc độ xe chạy đi nhanh, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, 
chính vì thế, các anh mới có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim. Và cái cảm 
giác thú vị khi xe chạy vào ban đêm, được “thấy sao trời” và khi đi qua những đoạn 
đường cua dốc thì những cánh chim như đột ngột “ùa vào buồng lái”. Thiên nhiên, vạn 
vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm 
nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ 
tuổi. Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh 
lãng mạn.
b. Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ 
chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm
Không có kính, ừ thì có bụi,
.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
- Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệu thản nhiên, ngang tàn hóm 
hỉnh, cấu trúc: “không có”;”ừ thì”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ ngữ “phì 
phèo”,”cười ha ha”,”mau khô thôi” làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới 
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
- Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Những chiếc xe từ 
khắp mọi miền Tổ quốc về đây họp thành tiểu đội.Cái “bắt tay” thật đặc biệt “Bắt tay qua 
cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình
cảm. Cái bắt tay thể hiện niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh, bù đắp tinh thần cho những 
thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng. Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong 
bài thơ “Đồng chí”: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung
hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc 
kháng chiến trường kì của dân tộc. Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách 
ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy 
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
+ Gắn bó trong chiến đấu, họ càng gắn bó trong đời thường.Sau những phút nghỉ ngơi 
thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ, những người lính lái xe đã xích lại thành gia đình: −Giờ đây những chiếc xe không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có 
xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính xế lại chất chồng khó khăn. Sự gian 
khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước
những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước.
−Nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bào? Nhà 
thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
+ Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ 
hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái 
tim”.
+ “Trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm 
xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói bom thuốc 
súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền.
+ Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹ cha, như vợ như chồng 
Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mỹ bạo tàn.
=> Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát 
khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực, chỉ 
có một việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân 
thực và sinh động.
– Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. 
Thử thách ngày càng tăng, nhưng mức độ và hướng đi không thay đổi.Vẫn là khẳng định 
tinh thần bất khuất, quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều
hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàn mà kiên định. Bài thơ 
đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền 
Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt
thép. - Tác dụng: Tạo nhịp điệu cho bài thơ, đồng thời thể hiện sự lạc quan, yêu đời của những 
người lính lái xe. Họ vẫn tiếp tục công việc của mình dù xung quanh có xảy ra những 
điều dữ dội, đau thương mất mát.
4. Nội dung chính: Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe Trường Sơn.
Đề số 2
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Không có kính không phải vì xe không có kính 
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim 
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
1. Đoạn thơ trên nằm trong tác phẩm nào? Do ai sáng tác? Được sáng tác theo thể thơ 
nào? - Nghệ thuật điệp “thấy” và nghệ thuật liệt kê “đất, trời, thẳng” → diễn tả những cảm giác 
thú vị đến với người lính trên những chiếc xe không kính.
Đề số 3
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy 
Võng mắc chông chênh đường xe chạy 
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn 
Không có mui xe, thùng xe có xước, 
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước 
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
(Trích Ngữ văn 9, tập một, NXB. Giáo dục, 2014).
1. Đoạn thơ trên nằm trong tác phẩm nào? Giới thiệu ngắn gọn về hoàn cảnh sáng tác của 
tác phẩm ấy. 3. Vì:
- Trước nay, khi nói về xe cộ, văn chương thường sử dụng nó như những hình ảnh ước lệ, 
giàu chất tượng trưng (chẳng hạn con tàu trong ‘Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên; cỗ 
xe tam mã trong thơ Pu-skin; hình ảnh xe ngựa hồn thu thảo trong thơ Bà Huyện Thanh 
Quan). Phạm Tiến Duật mới ở chỗ ông đưa vào thơ một hình ảnh thường gặp ở chiến 
trường: những chiếc xe bị bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi. Đưa hình ảnh thực tế vào 
thơ, Phạm Tiến Duật đã làm sống lại không khí tươi rói của chiến trường. Nhưng quan 
trọng hơn, qua hình ảnh chiếc xe, ông làm nổi bật chân dung tinh thần của người lính 
trong những năm tháng ác liệt tại chiến trường Trường Sơn. Đây chính là một hướng đi 
táo bạo của nhà thơ, khiến cho thơ không phải lúc nào cũng như một “tiểu thuyết yểu 
điệu” mà khỏe khoắn đầy ắp chất đời.
4. Tham khảo:
Lòng dũng cảm là một trong những phẩm chất vô cùng quan trọng của con người. Bởi 
trong cuộc đời mình, chúng ta luôn phải đối diện với khó khăn, thử thách. Dũng cảm là
dám đối mặt, dám vượt lên trên khó khăn, thách thức, vượt lên trên giới hạn của bản thân, 
không bao giờ bỏ cuộc dù trước mắt có là nguy hiểm và giông tố. Dũng cảm được thể 
hiện từ trong suy nghĩ đến hành động. Dũng cảm dám vứt bỏ cuộc sống tốt đẹp, an toàn 
để đi khám phá. Dũng cảm thay đổi bản thân để sống tốt đẹp hơn. Dũng cảm cứu người 
trong

File đính kèm:

  • pptbo_48_bai_giang_chuyen_de_on_thi_vao_10_bai_11_bai_tho_ve_ti.ppt