Bài giảng Chuyên đề dạy thêm Ngữ văn 6 (Kết nối tri thức) - Bài 2: Gõ cửa trái tim
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Chuyên đề dạy thêm Ngữ văn 6 (Kết nối tri thức) - Bài 2: Gõ cửa trái tim", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Chuyên đề dạy thêm Ngữ văn 6 (Kết nối tri thức) - Bài 2: Gõ cửa trái tim

GÕ CỬA TRÁI TIM Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. (Ca dao Việt Nam) 1.Hoạt động : Khởi động xác định nhiệm vụ học tập HS làm việc cá nhân, hoàn thành phiếu học tập 01. PHIẾU HỌC TẬP 01 KĨ NĂNG NỘI DUNG CỤ THỂ Đọc – hiểu văn Văn bản 1:.. bản Văn bản 2: . Văn bản 3: .. Thực hành tiếng Việt: .. Viết Nói và nghe Hoạt động ôn tập: Ôn tập kiến thức cơ bản ÔN TẬP ĐỌC HIỂU VĂN BẢN A. KIẾN THỨC CHUNG VỀ THƠ 1. Thơ là gì? là một hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống với những cảm xúc chất chứa, cô đọng, với những tâm trạng dạt dào, với những tưởng tượng mạnh mẽ, ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu 2. Một số đặc điểm của thơ: - Mỗi bài thơ thường được sáng tác theo một thể thơ nhất định, với những đặc điểm riêng về số tiếng mỗi dòng, số dòng mỗi câu. 3. Cách đọc hiểu tác phẩm thơ Em cần lưu ý những điều gì khi đọc hiểu một bài thơ ? Gợi ý trả lời Khi đọc hiểu một tác phẩm thơ, ta cần tuân thủ những yêu cầu dưới đây: - Cần biết rõ tên tác phẩm, tên tập thơ, tên tác giả, hoàn cảnh sáng tác bài thơ. - Cần hiểu được bài thơ là lời của ai, nói về ai, về điều gì? - Đọc kĩ bài thơ, cảm nhận ý thơ qua các yếu tố hình thức của bài thơ: nhan đề, dòng thơ, số khổ thơ, vần và nhịp, các hình ảnh đặc sắc, các biện pháp tu từ,. Ý thơ ở đây là cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng, những sự việc, sự vật, Đồng cảm với nhà thơ, dùng liên tưởng, tưởng tượng, phân tích khả năng biểu hiện của từng từ ngữ, chi tiết, vần điệu, mới cảm nhận được ý thơ, thấu hiểu hình tượng thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình - Chỉ ra được tình cảm, cảm xúc của người viết và tác động của chúng đến suy nghĩ và tình cảm của người đọc. - Từ những câu thơ đẹp, lời thơ lạ, ý thơ hay, từ hình tượng thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình, hãy lùi xa ra và nhìn lại để lí giải, đánh giá toàn bài thơ cả về nội dung và nghệ thuật. Cần chỉ ra được những nét độc đáo, sáng tạo trong hình thức biểu hiện; những đóng góp về nội dung tư tưởng. Xuân Quỳnh được xem là một trong nữ thi sĩ nổi tiếng với nhiều những bài thơ đã đi vào lòng của biết bao nhiêu thế hệ như: Thuyền và Biển, Sóng, Tiếng gà trưa, Thơ tình cuối mùa thu, Nhà thơ Xuân Quỳnh đã được nhà nước phong tặng Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh về những thành tựu bà đã làm cho nền văn học của nước nhà. Tập thơ tiêu biểu viết cho thiếu nhi của nhà thơ: Bầu trời trong quả trứng, lời ru trên mặt đất, Bến tàu trong thành phố. II. Tác phẩm: 1. Xuất xứ: In trong tập thơ: Lời ru trên mặt đất, 1978 - Thể thơ: 5 chữ - Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm (mượn yếu tố tự sự để bộc lộ tình cảm, cảm xúc, tình cảm yêu thương dành cho trẻ thơ). - Gieo vần: vần chân - Ngắt nhịp 3/2/ hoặc 2/3 III. ĐỊNH HƯỚNG PHÂN TÍCH VĂN BẢN 1. Dàn ý 1.1. Nêu vấn đề: giới thiệu nhà thơ Xuân Quỳnh, bài thơ “ Chuyện cổ tích về loài người”. 1.2. Giải quyết vấn đề: B1: Khái quát về văn bản: chủ đề, thể thơ, bố cục văn bản, chủ đề, B2: Phân tích nội dung – nghệ thuật của văn bản theo luận điểm: a. Thế giới trước khi trẻ em ra đời Trẻ em được sinh ra đầu tiên trên Trái đất. Khi ấy cả trái đất trụi trần, không có gì hết, không có ánh sáng, cây cỏ, màu sắc... Tất cả bao trùm bởi màu đen *Sự xuất hiện những người thân và món quà mang đến cho trẻ em. - Hình ảnh người mẹ và những lời ru +Mẹ mang đến cho con tình yêu thương của mẹ. Tình yêu ấy được thể hiện một cách bình dị nhất qua sự chăm sóc ân cần và lời ru của mẹ + Những hình ảnh trong lời ru được gợi ra từ lời ru của mẹ: . Cái bống cái bang gợi liên tưởng đến câu ca dao quen thuộc, cái bống giống như những em bé ngoan ngoãn, chăm chỉ trong bài ca dao “ Cái Bống là cái bống bang...”. Nhắc đến cái bống, nhà thơ ngầm nhắc nhở đến những em bé ngoan ngoãn, hiếu thảo, biết yêu thương giúp đỡ cha mẹ . Cánh cò trắng: gợi đến bài ca dao “Con cò mà đi ăn đêm...” Cánh cò trắng biểu tượng cho người nông dân vất vẻ, một nắng hai sương kiến ăn mà vẫn quanh năm thiếu thốn. Tuy hoàn cảnh sống lam lũ, cực nhọc nhưng họ vẫn luôn giữa tấm lòng trong sạch. - Hình ảnh người bố: +Nếu mẹ yêu thương trẻ, dành cho trẻ sự chăm sóc ân cần và lời ru ngọt ngào thì bố thể hiện qua sự truyền dậy cho trẻ em những tri thức về thiên nhiên, về cuộc sống. +Mẹ nuôi dưỡng cho trẻ trái tim ấm áp, yêu thương. Bố giúp trẻ trưởng thành về trí tuệ +Trẻ còn cần biết nghĩ, biết ngoan, biết mở rộng hiểu biết và khám phá thế giới xung quanh bằng sự dậy dỗ của bố. Bố dậy con rộng là mặt bể, dài là con đường đi, núi màu xanh và trái đất hình tròn. - Hình ảnh người thầy và mái trường: + Hình ảnh mái trường hiện lên rất những gì rất đỗi thân thương và bình dị như chữ viết, bàn ghế, lớp học, bảng,phấn và thầy giáo. + Người thầy đa mang đến cho trẻ em bài học về đạo đức, tri thức, nuôi dưỡng những ước mơ đẹp đẽ... giúp trẻ trưởng thành.Vai trò của yếu tố tự sự trong thơ: Mặc dù phương thức biểu đạt chính của thơ là biểu cảm, nhưng trong bài thơ được lồng yếu tố tự sự. Bài thơ có nhan đề là Chuyện cổ tích về loài người gợi cho người đọc liên tưởng đến những câu chuyện ưởng tượng về sự xuất hiện của loài người trong vũ trụ dưới hình thức cổ tích suy nghiêm, giải thích nguồn gốc của loài người mang màu sắc hoàng đường kì lạ. 2. Định hướng phân tích Nhắc đến Xuân Quỳnh là nhắc đến thi sĩ nổi tiếng với những vần thơ trong trẻo, dịu dàng mà chan chứa tình yêu thương con người, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. Trong rất nhiều bài thơ thi sĩ viết cho trẻ thơ, có lẽ “Chuyện cổ tích về loài người” là tiêu biểu nhất. Bài thơ được in trong tập “Lời ru trên mặt đất” ( 1978), viết theo thể thơ năm chữ. Giọng thơ dịu dàng, tâm tình tha thiết, bài thơ vừa thể hiện tình yêu thương trẻ thơ, vừa giúp ta cảm nhận nét đẹp của lòng nhân hậu, trong sáng trong thơ Xuân Quỳnh. Bằng trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ lí giải về nguồn gốc của loài người theo một cách rất thơ, để nhắc nhở mọi người cùng quan tâm chăm sóc cho trẻ. Lí giải về nguồn gốc loài người, kho tàng văn học dân gian có bao câu chuyện hấp dẫn như Con rồng, cháu tiên kể về Lạc Long Quân và Âu Cơ, Bàn cổ khai thiên lập địa, Nữ Oa sáng tạo ra con người (phương Đông), Thần Pờ-rô-mê-tê (thần thoại Hi Lạp)...Các truyện đó có điểm kì lạ là đều giải thích về nguồn gốc loài người do Trời sinh ra. Đó là cách giải thích mang màu sắc hoang đường, kì ảo. Còn với Xuân Quỳnh, một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại, nhà thơ đã giải thích nguồn gốc của con người bằng một lối tư duy giàu hình tượng của thơ. Nhà thơ mượn lời tâm tình từ trái tim của người mẹ, để lí giải về nguồn gốc của loài người một cách rất độc đáo, rất thơ. Trẻ em được sinh ra đầu tiên trên Trái đất. Khi ấy cả trái đất trụi trần, không có gì hết, không có ánh sáng, cây cỏ, màu sắc...Tất cả bao trùm bởi màu đen. Mặt trời xuất hiện đầu tiên là món quà vô giá, mang ánh sáng và mọi sự sống được sinh sôi, nảy nở. Những màu sắc của cỏ cây, hoa lá cứ trỗi dậy, lớn dần. Rồi đến chim chóc được sinh ra, mang tiếng hót trong trẻo đến“Màu xanh bắt đầu cỏ...truyền âm thanh đi khắp”. Các sự vật, hình ảnh thiên nhiên được liệt kê ra thật phong phú, đáng yêu, gần gũi và trẻ đều rất yêu thích. Tfế giới thiên nhiên cứ dần dần xuất hiện trước mắt trẻ thơ, từ sự vật nhỏ bé, gần gũi như “cỏ, cây, hoa, lá” đến những hình ảnh thiên nhiên lớn lao kì vĩ luôn có sức hấp dẫn vô ngần như dòng sông, biển cả, con đường, đám mây...Không chỉ là hình ảnh, mà thiên nhiên còn đẹp đẽ với biết bao sắc màu. Màu xanh của cái cây, màu đỏ của bông hoa. Lại cả những âm thanh trong trẻo vô ngần của tiếng chim, làn gió. Xuân Quỳnh dùng nhiều hình ảnh gần gũi, chân thực kết hợp với các biệp pháp tu từ so sánh: “Tiếng hót trong bằng nước/ tiếng hót cao bằng mây”; “cây cao bằng gang tay/ Lá cỏ bằng sợi tóc...”; nhân hóa “Những làn gió thơ ngây” làm cho lời thơ có sức cuốn hút kì lạ. Thế giới thiên nhiên hiện ra thật sinh động, gần gũi, hiền lành, là người bạn của trẻ thơ. Dưới trí tưởng tượng của nhà thơ, thiên nhiên dường như đang biến đổi, đem đến cho trẻ em không gian trong trẻo, ánh sáng dịu dàng, âm thanh du dương...Tất cả hướng đến nuôi dưỡng, chăm chút cho trẻ. Mẹ mang đến cho con tình yêu thương và lời ru. Tình yêu ấy được thể hiện một cách bình dị nhất qua sự chăm sóc ân cần “bế bồng, chăm sóc”, qua cả lời ru ngọt ngào của mẹ. Điệp từ “Từ” đứng đầu câu thơ vừa nhấn mạnh vừa gợi mở một thế giới hình ảnh phong phú đẹp đẽ, vừa gần gũi thân thương trong mẹ ru. Âm hưởng thiết tha, sâu lắng cho lời thơ. Những hình ảnh trong lời ru gợi ra biết bao tâm tình của mẹ. Đó là tình yêu thương tha thiết, là cử chỉ vỗ về chăm chút cho con. Đó còn là ước mơ, hi vọng chứa chan mẹ dành cho con. Mỗi hình ảnh trong lời ru mang lại những giá trị biểu cảm sâu sắc. Hình ảnh “Cái bống cái bang” gợi liên tưởng đến câu ca dao quen thuộc“ Cái bống là cái bống bang...”. Nhắc đến cái bống, nhà thơ ngầm nhắc nhở đến những em bé ngoan ngoãn, hiếu thảo, biết yêu thương giúp đỡ cha mẹ. Lời ru của mẹ còn có cả “cánh cò rất trắng”. Không phải nhẫu nhiên nhà thơ viết về bà là nhắc đến thế giới của những câu chuyện cổ tích. Bới vì, hơn ai hết, bà thường tâm tình với trẻ bằng những câu chuyện cổ tích. Trẻ thơ, ai chả khao khát nghe bà kể chuyện Tấm Cám, Thạch Sanh, ...Mỗi một câu chuyện là ước mơ cao đẹp của con người về giá trị, đạo lí làm người. Đó là “Tấm Cám”, “Thạch Sanh” chính là ước mơ về công bằng, ở hiền thi gặp lành; “Cóc kiện trời” là biểu tượng cho giá trị của đoàn kết tạo nên sức mạnh; nào là “Nàng tiên ốc”, “Ba cô tiên” nơi lạc quan, tin tưởng vào những điều tốt đẹp. Những câu chuyện cổ tích mang đến cho trẻ thơ bài học về triết lí sống nhân hậu, ở hiền gặp lành ; là suối nguồn trong trẻo nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn trẻ thơ. Dùng yếu tố tự sự, kết hợp miêu tả, nhà thơ bộc lộ tình yêu thương trẻ thơ tha thiết. Muốn cho trẻ hiểu biết Thế là bố sinh ra Bố bảo cho biết ngoan Bố dạy cho biết nghĩ Rộng lắm là mặt bể Dài là con đường đi Núi thì xanh và xa Hình tròn là trái đất...
File đính kèm:
bai_giang_chuyen_de_day_them_ngu_van_6_ket_noi_tri_thuc_bai.pptx